Giãn tĩnh mạch tinh là nguyên nhân gây ra 15-25% các trường hợp vô sinh nam nguyên phát và 75-81% vô sinh nam thứ phát. Đăng ngày 19/01/2020 Cách đây 2 năm, em có triệu chứng đau tức tinh hoàn vào buổi chiều, nhất là khi đứng ngồi lâu hay hoạt động gắng sức.
Study with Quizlet and memorize flashcards containing terms like 81. Các chất sau đây gây giãn mạch, trừ: A. Nồng độ ion Mg++ trong máu tăng. B. Histamin. C. Vasopressin. D. Prostaglandin., 82. Các chất sau đây gây co mạch, trừ: A. Adrenalin. B. Angiotensin I. C. Angiotensin II. D. Vasopressin., 83. Những thay đổi sau đây làm tăng huyết áp, trừ: A
- Giãn tĩnh mạch bẩm sinh, nguyên nhân do bất thường của thành tĩnh mạch làm nghẹt tĩnh mạch sâu và rò động tĩnh mạch (dạng u máu hỗn hợp). Biến chứng của giãn tĩnh mạch Trước tiên là các biến chứng về rối loạn huyết động học: cẳng chân bệnh nhân bị sưng to, có triệu chứng đau buốt mặt sau cẳng chân, chuột rút về đêm.
Phụ nữ sau khi sinh rất dễ bị suy giãn tĩnh mạch do khi mang thai, nội tiết tố tiết ra trong lúc mang thai sẽ làm mềm và giãn nở tất cả các cơ quan trong đó có tĩnh mạch chân. Cùng với việc phôi thai lớn lên chiếm phần lớn khoang bụng, đè nén trực tiếp vào các tĩnh mạch
3. Một số lưu ý sau phẫu thuật giãn tĩnh mạch thừng tinh. Sau khi phẫu thuật giãn tĩnh mạch thừng tinh, để vết mổ mau hồi phục, nam giới cần chú ý những vấn đề sau: Trong thời gian 48 giờ sau khi mổ, hạn chế tối đa việc đi lại, đặc biệt là vận động mạnh để
Đây là dấu hiệu của suy giãn tĩnh mạch. Trước mắt để giảm suy giãn tĩnh mạch, giảm các khó chịu do bệnh gây ra, bạn có thể tập luyện tại nhà, lựa chọn chế độ ăn uống phù hợp, ngâm chân nước lạnh, đi tất nén… Tập luyện nên chọn các hình thức ít gắng sức, không tăng áp lực lên chân, do đó không nên tập các môn như tập aerobic, nâng tạ, chạy…
RfbU. Hỏi Em chào bác sĩ. Bác sĩ cho em hỏi là chân em bị suy giãn tĩnh mạch lúc mang bầu, hiện tại em bé nhà em được gần 6 tháng rồi thì chân em có dấu hiệu đau và nhức trở lại. Xin hỏi cách điều trị suy giãn tĩnh mạch cho phụ nữ sau sinh ạ. Em cảm ơn bác hỏi khách hàng ẩn danhTrả lờiChào bạn,Suy giãn tĩnh mạch được chẩn đoán dựa trên lâm sàng phù, nặng chân, đau nhức, tê bì, và cần được siêu âm tĩnh mạch 2 chi dưới. Thông thường suy giãn tĩnh mạch lúc mang bầu là do mang thai nên máu từ tĩnh mạch 2 chân về tim bị cản trở, nên máu ứ lại ở 2 chân gây phù nhẹ hoặc cảm giác nặng. Sau sinh hiện tượng trên có thể tự mất, nhưng nếu còn các triệu chứng trên bạn có thể thay đổi thói quen sinh hoạt nhưHạn chế đứng lâu hay ngồi lâu, tăng cường tập thể dục thể thaoThay đổi tư thế thường xuyên, tránh đứng lâu ngồi nhiềuUống đầy đủ nước, duy trì trọng lượng hợp lý, chế độ ăn uống nhiều chất vẫn còn triệu chứng thì bạn nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa Tim có thể đến khám tại các bệnh viện thuộc Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để được các bác sĩ giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm tư vấn kỹ càng hơn. Cảm ơn bạn vì đã đặt câu hỏi và chia sẻ lo lắng về cách điều trị suy giãn tĩnh mạch cho phụ nữ sau sinh tới Vinmec. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Được giải đáp bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Danh Mện - Bác sĩ Nội tim mạch - Khoa Khám bệnh & nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Phú Quốc.
Huyết khối tĩnh mạch sâu DVT là tình trạng máu đông ở tĩnh mạch sâu thường là bắp chân hoặc đùi hoặc vùng chậu. DVT là nguyên nhân chính gây thuyên tắc mạch phổi. DVT là hậu quả của tình trạng giảm khả năng trở về tĩnh mạch, dẫn đến tổn thương nội mạc hoặc rối loạn chức năng, hoặc gây tăng đông. DVT có thể không triệu chứng hoặc gây đau và sưng nếu tình trạng nặng; tắc mạch phổi là một biến chứng cấp tính. Chẩn đoán dựa tiền sử và khám lâm sàng, được xác định bằng các test khách quan, điển hình là siêu âm Dopler mạch máu. Xét nghiệm D-Dimer được dùng khi nghi ngờ DVT; kết quả âm tính giúp loại trừ DVT, trong khi kết quả dương tính là chưa đặc hiệu và cần phải kiểm tra thêm để xác định DVT. Điều trị bằng thuốc chống đông. Nói chung, tiên lượng tốt với điều trị kịp thời, đầy đủ. Các biến chứng mạn tính thường gặp bao gồm suy tĩnh mạch kèm hoặc không kèm hội chứng hậu huyết khối.. Nó cũng có thể hình thành ở tĩnh mạch sâu ở chi trên 4 đến 13% trường hợp DVT. Tĩnh mạch sâu chi dưới. Huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới có nhiều khả năng gây ra tắc mạch phổi Thuyên tắc động mạch phổi PE đọc thêm PE, do hậu quả cục máu đông. Các tĩnh mạch đùi, tĩnh mạch khoeo và các tĩnh mạch chậu trong và chậu ngoài thường bị ảnh hưởng nhất. Huyết khối đoạn xa ít có khả năng tạo huyết khối lớn nhưng có thể lan truyền đến tĩnh mạch đoạn gần và từ đó gây ra PE. Khoảng 50% bệnh nhân bị DVT có PE ẩn giấu, và ít nhất 30% bệnh nhân PE mà DVT có thể phát hiện. Nhiều yếu tố có thể góp phần vào DVT xem bảng . Ung thư là một yếu tố nguy cơ đối với DVT, đặc biệt ở bệnh nhân cao tuổi và bệnh nhân tắc huyết khối. Sự kết hợp này mạnh nhất ở các tế bào ung thư nội mô như ung thư ruột và tụy. Biểu hiện ung thư có thể xuất hiện rõ ràng ở những bệnh nhân có DVT nhưng tìm kiếm ung thư không khuyến cáo trừ khi bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao hoặc biểu hiện gợi ý ung thư. DVT chi dưới hầu như là kết quả từ, Giảm trở lại tĩnh mạch ví dụ ở bệnh nhân bất độngTổn thương nội mạc hoặc rối loạn chức năng ví dụ sau khi gãy chânTăng đông quá mứcDVT chi trên thường là kết quả từ Tổn thương nội mạc tĩnh mạch do catheter tĩnh mạch trung tâm, máy tạo nhịp tim, hoặc sử dụng ma túy tiêm chíchHuyết khối tĩnh mạch sâu thường bắt đầu ở van tĩnh mạch. Cục máu đông bao gồm thrombin, fibrin, và hồng cầu với tiểu cầu tương đối ít thrombi đỏ; nếu không điều trị, cục máu đông có thể di chuyển tới đoạn gần hoặc đi tới động mạch phổi. Các biến chứng thường gặp của huyết khối tĩnh mạch sâu bao gồmÍt gặp hơn, DVT cấp tính dẫn đến viêm tắc tĩnh mạch trắng hoặc viêm tắc tĩnh mạch xanh, cả hai trường hợp nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể dẫn đến hoại tử. Trong viêm tắc tĩnh mạch trắng, một biến chứng hiếm gặp của DVT trong thai kỳ, chân chuyển sang màu trắng sữa. Sinh lý bệnh chưa rõ ràng, nhưng phù có thể làm tăng áp lực mô bên ngoài hơn là áp lực mao mạch, dẫn đến tình trạng thiếu máu cục bộ và hoại tử viêm tắc tĩnh mạch xanh, u huyết huyết khối tĩnh mạch khổng lồ gây ra tắc mạch tĩnh mạch gần; chân trở nên thiếu máu cục bộ, đau dữ dội và ngứa. Sinh lý bệnh có thể liên quan đến sự ứ đọng hoàn toàn lưu lượng máu tĩnh mạch và động mạch ở phần dưới do dòng tĩnh mạch trở về bị tắc nghẽn hoặc khối lớn làm chèn ép máu động mạch. Hoại tử có thể xảy trùng hiếm khi phát triển thành cục máu đông. Nhiễm trùng huyết do liên cầu hội chứng Lemierre, nhiễm trùng do vi khuẩn thường là kỵ khí từ tĩnh mạch cảnh trong và các mô mềm xung quanh, theo viêm amiđan và thường khá phức tạp. Trong nhiễm trùng do huyết khối vùng chậu, các huyết khối phát triển sau sinh và bị nhiễm trùng, gây sốt liên tục. Viêm tắc tĩnh mạch nhiễm trùng huyết, một nhiễm trùng do vi khuẩn từ tĩnh mạch nông, bao gồm nhiễm trùng và đông máu, thường do đặt catheter tĩnh mạch. Triệu chứng và dấu hiệu của DVT DVT có thể xảy ra ở bệnh nhân ngoại trú hoặc một biến chứng của phẫu thuật hoặc bệnh nặng. Trong số bệnh nhân nhập viện có nguy cơ cao, hầu hết huyết khối xảy ra trong tĩnh mạch vùng cẳng chân, không có triệu chứng, và có thể không được phát xuất hiện, triệu chứng và dấu hiệu ví dụ đau mơ hồ, đau dọc theo đường đi tĩnh mạch, phù nề, ban đỏ không đặc hiệu, thay đổi theo mức độ nghiêm trọng, và giống nhau ở chi trên cũng như chi dưới. Các tĩnh mạch nông bị giãn có thể rõ ràng hoặc không. Cảm giác khó chịu của bắp chân tăng khi gấp mặt mu vào cẳng chân dấu hiệu Homans đôi khi xảy ra với DVT đoạn xa nhưng không nhạy cũng không đặc hiệu. Ấn đau, sưng toàn bộ chân, chênh lệch chu vi > 3 cm giữa các bắp chân, phù ấn lõm và các tĩnh mạch nông nhánh bên có thể là đặc hiệu nhất; huyết khối tĩnh mạch sâu có khả năng xảy ra với sự kết hợp của ≥ 3 trong trường hợp không có một chẩn đoán có khả năng xảy ra khác xem bảng .Có thể sốt nhẹ; DVT có thể là nguyên nhân của sốt mà không có một nguồn gốc rõ ràng, đặc biệt là ở những bệnh nhân sau phẫu thuật. Các triệu chứng của PE Triệu chứng và Dấu hiệu , nếu xảy ra, có thể bao gồm khó thở và đau ngực kiểu màng phổi. Các nguyên nhân thường gặp của sưng chân không đối xứng giống với DVT là Chấn thương mô mềmChèn ép tĩnh mạch vùng chậuTắc nghẽn hệ mạch bạch huyết ở khung chậuViêm túi thanh dịch khoeo nang Baker gây tắc nghẽn trở lại tĩnh mạchCác nguyên nhân ít phổ biến hơn bao gồm các khối u ở vùng bụng hoặc u vùng chậu làm cản trở sự hồi lưu của tĩnh mạch hoặc bạch dụng các thuốc gây ra phù ví dụ, các thuốc chẹn kênh cholin dihydropyridin, estrogen, opioid liều cao, tăng áp lực tĩnh mạch thường là do suy tim phải và giảm albumin huyết thanh thường gây sưng hai chân đối xứng; tuy nhiên, sưng có thể không đối xứng nếu sự suy giảm tĩnh mạch cùng tồn tại và tệ hơn ở một nhân phổ biến của đau bắp chân giống như DVT cấp tính bao gồm Vết vỡ nang ruột Baker giả DVV, gây sưng nề bắp chân, và đôi khi bị bầm tím ở vùng giữa mắt cá trongRách một phần hoặc toàn bộ cơ hoặc gân bắp chân Siêu âmĐôi khi đo D-dimerBệnh sử và khám thực thể giúp xác định xác suất huyết khối tĩnh mạch sâu trước khi xét nghiệm xem bảng . Chẩn đoán thông thường là siêu âm Doppler mạch siêu âm duplex. Cần thêm các cận lâm sàng ví dụ, D-dimer và sự lựa chọn và trình tự thực hiện phụ thuộc vào xác suất lâm sàng khi đánh giá và đôi khi là kết quả siêu âm. Không có đề cương thử nghiệm nào là tốt nhất; một phương pháp được mô tả trong hình . Một cách tiếp cận để kiểm tra nghi ngờ huyết khối tĩnh mạch sâu. Siêu âm xác định huyết khối bằng cách quan sát trực tiếp thành tĩnh mạch và biểu hiện tĩnh mạch bất thường hoặc với dòng chảy Doppler của các tĩnh mạch bất thường. Siêu âm có độ nhạy > 90% và đặc hiệu > 95% đối với huyết khối tĩnh mạch tầng đùi và khoeo, nhưng ít chính xác hơn cho huyết khối tĩnh mạch cẳng chân. D-Dimer là một sản phẩm phụ của việc làm tan fibrin; mức độ cao gợi ý hiện diện gần đây và sự tan rã huyết khối. Xét nghiệm D-Dimer khác nhau về độ nhạy và độ đặc hiệu; tuy nhiên, hầu hết là khá nhạy và không đặc hiệu. Chỉ nên sử dụng các xét nghiệm chính xác nhất. Ví dụ, xét nghiệm có độ nhạy cao là xét nghiệm miễn dịch hấp phụ liên kết enzym ELISA, có độ nhạy khoảng 95%.Nếu xác suất trước khi kiểm tra DVT thấp, DVT có thể được loại trừ một cách an toàn ở bệnh nhân D-dimer bình thường trên xét nghiệm. Như vậy, D-dimer âm tính có thể chẩn đoán những bệnh nhân có xác suất DVT thấp và không yêu cầu siêu âm. Tuy nhiên, một kết quả xét nghiệm dương tính là không đặc hiệu; vì mức độ có thể tăng lên theo các điều kiện khác ví dụ như bệnh gan, chấn thương, mang thai, yếu tố dạng thấp dương tính, viêm, phẫu thuật gần đây, ung thư, do đó cần phải kiểm tra xác suất trước khi kiểm tra DVT ở mức vừa phải hoặc cao, D-dimer thử nghiệm có thể được thực hiện đồng thời như Siêu âm Doppler mạch. Một kết quả siêu âm dương tính chẩn đoán xác định bất kể mức độ D-dimer. Nếu siêu âm không có gợi ý về DVT, D-dimer bình thường mức giúp loại trừ DVT. Bệnh nhân tăng D-dimer nên có siêu âm lặp lại trong vài ngày hoặc các chẩn đoán hình ảnh bổ sung, chẳng hạn như chụp tĩnh mạch, tùy thuộc vào nghi ngờ lâm sàng. Chụp tĩnh mạch cản quang là công cụ chính xác cho chẩn đoán DVT nhưng phần lớn được thay thế bằng siêu âm vì không xâm lấn, dễ dàng hơn và gần như chính xác cho việc phát hiện DVT. Chụp tĩnh mạch có thể được chỉ định khi kết quả siêu âm là bình thường nhưng xác suất lâm sàng nghi ngờ DVT là cao. Tỷ lệ biến chứng là 2%, chủ yếu là do dị ứng thuốc cản quang. Các phương pháp không xâm lấn để chụp tĩnh mạch cản quang đang được nghiên cứu. Chúng bao gồm chụp tĩnh mạch MRI có thuốc đối quang từ và MRI trực tiếp mà sử dụng trình tự lặp lại gradient-echo có T1 và xung kích thích sóng, về mặt lý thuyết, thăm dò thứ hai có thể cùng kết quả trong chẩn đoán huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc động mạch phổi để chẩn đoán tắc mạch phổi.Nếu các triệu chứng và dấu hiệu gợi ý PE, cần làm thêm các chẩn đoán hình ảnh ví dụ thở máy/thông khí [V/Q] hoặc chụp CT mạch phổi. Việc sàng lọc bệnh nhân bị DVT do ung thư có hiệu quả thấp. Các test sàng lọc được hướng dẫn bởi các xét nghiệm tổng quát và khám sức khỏe và các xét nghiệm "cơ bản" công thức máu, X-quang ngực, xét nghiệm nước tiểu, men gan, và các chất điện giải trong huyết thanh, BUN, creatinine để có thể phát hiện ra ung thư. Ngoài ra, bệnh nhân cần phải sàng lọc ung thư vú theo tuổi tác và giới tính ví dụ chụp X-quang tuyến vú, nội soi đại tràng. Nếu không được điều trị đầy đủ, DVT có nguy cơ tử vong 3%; tử vong do DVT chi trên thì rất hiếm. Nguy cơ tái phát DVT là thấp nhất đối với bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ tạm thời ví dụ phẫu thuật, chấn thương, tạm thời bất động và lớn nhất đối với bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ liên tục như ung thư, DVT vô căn, hoặc độ ly giải không hoàn toàn của DVT trong quá khứ. Giá trị bình thường D-dimer sau khi ngừng dùng warfarin có thể giúp dự đoán nguy cơ thấp cho việc tái phát DVT hoặc PE. Nguy cơ suy tĩnh mạch mạn tính rất khó tiên đoán. Các yếu tố nguy cơ của hội chứng hậu huyết khối bao gồm huyết khối đoạn gần, huyết khối DVT tái phát, và chỉ số khối cơ thể BMI ≥ 22 kg/m2. Chống đôngĐôi khi đặt màng lọc tĩnh mạch chủ dướiCác biện pháp hỗ trợ chung bao gồm kiểm soát đau với thuốc giảm đau, bao gồm các liều ngắn hạn từ 3 đến 5 ngày của NSAID. Nên tránh điều trị kéo dài với NSAID và aspirin vì tác dụng kháng tiểu cầu của chúng có thể làm tăng nguy cơ biến chứng chảy máu. Ngoài ra, độ cao của chân được hỗ trợ bởi gối hoặc bề mặt mềm khác để tránh ứ trệ tĩnh mạch được khuyến cáo trong thời gian không hoạt động. Bệnh nhân có thể hoạt động thể chất phù hợp với khả năng của họ; không có bằng chứng cho thấy rằng hoạt động sớm làm tăng nguy cơ cục máu đông và thuyên tắc phổi mà còn có thể giúp làm giảm nguy cơ hội chứng hậu huyết khối. Lý do của cách tiếp cận khác này là khi bắt đầu dùng warfarin, phải mất khoảng 5 ngày để đạt được hiệu quả điều trị; do đó, cần phải chồng chéo với heparin tác dụng nhanh trong 5 đến 7 ngày. Mặt khác, thuốc ức chế yếu tố Xa đường uống và dabigatran đạt được hiệu quả điều trị trong vòng 2 đến 3 giờ sau khi uống và không cần dùng chồng chéo các thuốc này với heparin tiêm. Một số bệnh nhân có thể tiếp tục điều trị bằng heparin trọng lượng phân tử thấp thay vì chuyển sang thuốc uống, ví dụ như bệnh nhân bị huyết khối tĩnh mạch vùng chậu đùi lan rộng hoặc bệnh nhân ung thư được chọn. Ngoài ra, có thể bắt đầu chống đông bằng thuốc chống đông uống trực tiếp rivaroxaban hoặc apixaban mà không cần dùng heparin tiêm trước; tuy nhiên, việc sử dụng các loại thuốc này có thể bị hạn chế do chi phí cao hơn so với đông máu không phù hợp trong 24 đến 48 giờ đầu có thể làm tăng nguy cơ tái phát hoặc PE. DVT cấp tính có thể được điều trị ngoại trú trừ khi các triệu chứng nghiêm trọng đòi hỏi thuốc giảm đau qua đường tiêm, các rối loạn khác không cho phép xuất viện an toàn, hoặc các yếu tố khác ví dụ chức năng, kinh tế xã hội có thể ngăn không cho bệnh nhân tuân thủ các biện pháp điều trị. IVCF có thể giúp ngăn ngừa tắc mạch phổi ở những bệnh nhân có DVT ở chi dưới có chống chỉ định chống đông máu hoặc ở những bệnh nhân bị DVT tái phát hoặc huyết khối mặc dù có thuốc chống đông máu. Một tấm lưới được đặt trong tĩnh mạch chủ bên dưới tĩnh mạch thận thông qua catheter của tĩnh mạch cảnh hoặc tĩnh mạch đùi. Một số IVC filter có thể tháo rời và có thể được sử dụng tạm thời ví dụ, cho đến khi có chống chỉ định cho thuốc giảm đau hoặc giải quyết. IVCF làm giảm nguy cơ biến chứng tắc nghẽn cấp nhưng có thể có biến chứng lâu dài như các ổ lóc tĩnh mạch có thể phát triển, tạo ra một con đường dẫn đến thuyên tắc để phá vỡ màng lọc, và tăng nguy cơ tái phát huyết khối tĩnh mạch sâu. Ngoài ra, màng lọc IVC có thể bị tắc nghẽn bởi cục máu đông. Vì vậy, bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ DVT tái phát hoặc các yếu tố nguy cơ không thay đổi đối với DVT có thể vẫn cần phải chống đông mặc dù có sự hiện diện của một IVC Fiter. Streptokinase, urokinase, và alteplase gây ly giải cục máu đông và có thể có hiệu quả hơn để ngăn ngừa hội chứng hậu huyết khối hơn heparin đơn độc, nhưng nguy cơ chảy máu cao hơn so với heparin. Do đó, thuốc tiêu sợi huyết chỉ nên được xem xét ở những bệnh nhân có DVT. Những bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ thuốc tiêu huyết khối bao gồm những người < 60 tuổi với DVT giãn tĩnh mạch chậu có tình trạng thiếu máu cục bộ chi ví dụ, viêm tắc tĩnh mạch chi và không có các yếu tố nguy cơ gây chảy máu. Phẫu thuật ít khi cần thiết. Tuy nhiên, lấy huyết khối, phẫu thuật vùng chậu, hoặc cả hai đều bắt buộc đối với viêm tắc tĩnh mạch trắng và xanh không có đáp ứng với thuốc tiêu sợi huyết để ngăn ngừa tình trạng hoại tử có tổn thương chi. 1. Ortel TL, Neumann I, Ageno W, et al American Society of Hematology 2020 guidelines for management of venous thromboembolism treatment of deep vein thrombosis and pulmonary embolism. Blood Adv 4194693-4738, 2020. doi PMID 33007077; PMCID Stevens SM, Woller SC, Kreuziger LB, et al Antithrombotic therapy for VTE disease second update of the CHEST Guideline and Expert Panel Report. Chest 1606e545-e608, 2021. doi Xuất bản điện tử ngày 2 tháng 8 năm 2021. Erratum in Chest. 2022 Jul;1621269. PMID 34352278. Phòng ngừa khi bất độngThuốc chống đông máu ví dụ, LMWH, fondaparinux, điều chỉnh liều warfarin, thuốc chống đông trực tiếp đường uốngkhí bơm hơi áp lực liên tục Các triệu chứng và dấu hiệu không đặc hiệu, vì vậy các bác sĩ lâm sàng phải cảnh giác, đặc biệt ở những bệnh nhân có nguy cơ bệnh nhân có nguy cơ thấp có thể dùng xét nghiệm D-dimer, một kết quả bình thường cho phép loại trừ tính mạch sâu; những trường hợp khác nên có siêu trị ban đầu bằng heparin tiêm heparin không phân đoạn hoặc trọng lượng phân tử thấp [LMWH], sau đó là thuốc chống đông đường uống warfarin, dabigatran hoặc thuốc ức chế yếu tố Xa hoặc có thể là LMWH; cách khác, rivaroxaban và apixaban ức chế yếu tố Xa đường uống có thể được sử dụng để điều trị ban đầu và điều trị liên gian điều trị thường là 3 hoặc 6 tháng tùy thuộc vào sự hiện diện và tính chất của các yếu tố nguy cơ; một số bệnh nhân nhất định cần được điều trị suốt điều trị dự phòng là cần thiết đối với bệnh nhân nằm lâu có bệnh nặng và/hoặc những người trải qua các thủ thuật phẫu thuật nhất hoạt động sớm, nâng chân và thuốc chống đông là những biện pháp phòng ngừa được khuyến cáo; những bệnh nhân không nên dùng thuốc chống đông có thể được hưởng lợi từ các thiết bị bơm khí tạo áp lực liên tục, tất áp lực, hoặc cả hai.
Mục lục Suy giãn tĩnh mạch là gì? Nguyên nhân và các yếu tố có thể gây suy giãn tĩnh mạch Triệu chứng của bệnh suy giãn tĩnh mạch Giai đoạn đầu Giai đoạn sau Suy giãn tĩnh mạch gây ra biến chứng gì? Các phương pháp điều trị suy giãn tĩnh mạch Phòng ngừa suy giãn tĩnh mạch bằng cách nào? 1. Suy giãn tĩnh mạch là gì? Tĩnh mạch là một bộ phận của hệ thống tuần hoàn, trong lòng tĩnh mạch được cấu tạo bởi một hệ thống van một chiều, nên máu trở về tim từ tĩnh mạch cũng theo một chiều nhất định, không có hiện tượng máu chảy trở lại. Suy giãn tĩnh mạch là tình trạng tĩnh mạch bị giãn, chạy quanh co và có dòng máu chảy theo chiều trái ngược nhau, gây ứ trệ tuần hoàn máu tĩnh mạch và tăng áp lực lên tĩnh mạch. Suy giãn tĩnh mạch sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình lưu thông máu về tim Nguồn Internet Bệnh thường xuất hiện khi thành tĩnh mạch bị suy yếu và các van một chiều bên trong lòng mạch bị tổn thương. Theo thời gian, các tĩnh mạch bị giãn ra sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình lưu thông máu về tim, lúc đó được gọi là bệnh giãn tĩnh mạch. Suy giãn tĩnh mạch bản chất có thể xảy ra ở bất kỳ tĩnh mạch nào trên cơ thể. Tuy nhiên, thường gặp nhiều nhất là suy giãn tĩnh mạch chân suy giãn tĩnh mạch chi dưới và suy giãn tĩnh mạch tay, do hệ thống tĩnh mạch ở các khu vực này có cấu tạo phức tạp và thường phải chịu nhiều áp lực lớn. Hiện nay, tại khu vực châu Á có khoảng 300 triệu người bị suy giãn tĩnh mạch. Bệnh đa phần gặp nhiều ở nữ giới với tỷ lệ 3 nữ thì có 1 nam. 2. Nguyên nhân và các yếu tố có thể gây suy giãn tĩnh mạch Suy giãn tĩnh mạch do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Một số nguyên nhân thường gặp nhất là Do khiếm khuyết van tĩnh mạch bẩm sinh. Tăng áp lực tĩnh mạch do thói quen thường xuyên đứng lâu hay ngồi lâu hay do mang thai. Huyết khối tĩnh mạch sâu ngăn cản dòng máu trở về tim. Rò động mạch – tĩnh mạch làm tăng áp lực tĩnh mạch. Một số yếu tố khác có khả năng gây suy giãn tĩnh mạch là người béo phì, phụ nữ sinh đẻ nhiều lần, yếu tố nội tiết sử dụng nhiều thuốc tránh thai, ít vận động, ăn ít chất xơ, vitamin, lão hóa do tuổi tác, hút thuốc lá quá nhiều.... Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến suy giãn tĩnh mạch Nguồn Internet 3. Triệu chứng của bệnh suy giãn tĩnh mạch Theo thống kê, có khoảng 75 – 80% người trên 50 tuổi có biểu hiện suy giãn tĩnh mạch với các triệu chứng nặng chân, phù chân vào buổi chiều khi đứng hoặc ngồi nhiều, chuột rút nơi chân, đau bắp chân, cảm giác tê hoặc giống kiến bò ở 2 chi dưới... Trên thực tế bệnh suy giãn tĩnh mạch thường tiến triển theo 2 giai đoạn Giai đoạn đầu Cảm giác khó chịu ở bắp chân, nặng chân, có khi có cảm giác như bị kiến bò, nóng rát. Nếu bị suy giãn tĩnh mạch chân sẽ có cảm giác chuột rút ở bắp chân thường xảy ra vào ban đêm. Giãn các mao mạch và tĩnh mạch nông ở chân và tay. Đau nhức, tê mỏi chân, tay. Các triệu chứng thường tăng lên vào buổi chiều tối, sau khi đứng lâu và giảm sau khi ngủ dậy, khi nghỉ ngơi... Giai đoạn sau Đây là giai đoạn nặng, tĩnh mạch đã hình thành huyết khối và gây ra các triệu chứng Huyết khối tĩnh mạch nông Tĩnh mạch nổi hẳn lên có thể nhìn thấy rõ bằng mắt thường, sờ ấm và cứng dọc theo tĩnh mạch, rất đau và có thể kèm theo đỏ da. Huyết khối tĩnh mạch nông thường ít gây các biến chứng và hậu quả ảnh hưởng đến tính mạng. Huyết khối tĩnh mạch sâu Thường gây sưng đỏ, đau nhức nhối, ngứa, có thể bị chảy máu, nhiễm trùng thứ phát ở những vị trí bị suy giãn tĩnh mạch. Một số trường hợp huyết khối tĩnh mạch sâu sẽ gây nguy hiểm tới tính mạng do huyết khối có thể bong và di chuyển lên phổi gây tắc mạch phổi. Loạn dưỡng da Da bị phù nề, dày lên, có thể bong vảy da, chảy nước và thay đổi màu sắc. Loét chân Xuất hiện các vết loét rất đau, ban đầu là loét nông sau đó sâu và rộng dần, dễ bị bội nhiễm. 4. Suy giãn tĩnh mạch gây ra biến chứng gì? Suy giãn tĩnh mạch nếu không điều trị có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm Nguồn Internet Bệnh suy giãn tĩnh mạch nếu không được điều trị kịp thời có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và gây ra nhiều biến chứng như Huyết khối tĩnh mạch sâu Đau mạn tính và loét. Phù mạch bạch huyết thứ phát. Thuyên tắc phổi, đây là bệnh lý nguy hiểm và gây tử vong cao. 5. Các phương pháp điều trị suy giãn tĩnh mạch Việc chẩn đoán suy giãn tĩnh mạch hiện nay khá dễ dàng, chủ yếu là khám lâm sàng và siêu âm hệ thống tĩnh mạch của bệnh nhân. Siêu âm là phương pháp hữu hiệu nhất cho phép đánh giá mức độ suy giãn tĩnh mạch có kèm theo thuyên tắc tĩnh mạch sâu hay không để người bác sĩ quyết định chỉ định các phương pháp điều trị phù hợp. Nếu người bệnh bị suy giãn tĩnh mạch nông thì việc điều trị khá đơn giản. Chủ yếu là Thay đổi thói quen sinh hoạt, hạn chế đứng lâu hay ngồi lâu, tăng cường tập thể dục thể thao. Có thể mang vớ suy giãn tĩnh mạch liên tục vào ban ngày để hạn chế tình trạng máu ứ trệ chảy ngược và giúp giảm phù nề. Dùng thuốc giảm đau, chống viêm, tăng vững bền thành mạch, tan cục máu đông... theo đơn thuốc của bác sĩ. Nếu trường hợp nặng hơn, bệnh nhân có thể sẽ được chỉ định thực hiện các phương pháp điều trị xâm lấn như chích xơ tĩnh mạch bằng chất tạo bọt, đến điều trị bằng các phương pháp can thiệp nội tĩnh mạch đốt tĩnh mạch giãn bằng sóng cao tần, laser nội mạch hoặc sử dụng chất keo dán sinh học bơm dán thành tĩnh mạch. Cuối cùng là phẫu thuật cắt lấy bỏ tĩnh mạch bị giãn, sửa van, tạo hình tĩnh mạch. 6. Phòng ngừa suy giãn tĩnh mạch bằng cách nào? Để phòng ngừa suy giãn tĩnh mạch cần nhớ những điều sau đây Không đứng quá lâu hoặc ngồi nhiều một chỗ. Không để tăng cân quá mức. Tạo thói quen tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn. Cần ăn đủ các loại thức ăn có chứa nhiều vitamin, nhất là các loại rau củ quả để có đủ một số vi chất cần thiết làm tăng tính bền vững của thành mạch. Nên xoa bóp nhẹ nhàng 2 chân theo hướng vuốt dọc từ mu bàn chân lên cẳng chân trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy để máu lưu thông dễ dàng. Đặc biệt, khi nghi ngờ mắc bệnh giãn tĩnh mạch, điều đầu tiên là phải đi khám bệnh để được chẩn đoán xác định và có chỉ định điều trị thích hợp.
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Bác sĩ chuyên khoa II Lại Thị Nguyệt Hằng - Khoa sản phụ khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long. Giãn tĩnh mạch là những tĩnh mạch lớn so với bình thường, sưng thường xuất hiện ở chân và bàn chân. Chúng xảy ra khi các van trong tĩnh mạch không hoạt động như bình thường, do đó máu không lưu thông hiệu tĩnh mạch hiếm khi cần điều trị vì lý do sức khỏe, nhưng nếu sưng, và đau ở chân, và nếu có cảm giác khó chịu nhiều, bạn nên được điều trị càng sớm càng tốt. Có nhiều lựa chọn điều trị khác nhau, bao gồm một số biện pháp khắc phục tại nhà. Trong trường hợp nghiêm trọng, giãn tĩnh mạch có thể vỡ, hoặc phát triển thành loét giãn tĩnh mạch trên da. Những điều này sẽ cần điều trị tại các cơ sở y tế. Bài viết này sẽ cung cấp thêm cho bạn những thông tin hữu ích về một số biện pháp điều trị giãn tĩnh mạch ở những bà mẹ sau khi sinh con. 1. Tôi bị giãn tĩnh mạch khi mang thai. Hiện tượng này sẽ bình thường sau khi tôi có con? Phụ nữ sau khi sinh rất dễ bị suy giãn tĩnh mạch do khi mang thai, nội tiết tố tiết ra trong lúc mang thai sẽ làm mềm và giãn nở tất cả các cơ quan trong đó có tĩnh mạch chân. Cùng với việc phôi thai lớn lên chiếm phần lớn khoang bụng, đè nén trực tiếp vào các tĩnh mạch ở vùng bụng, do đó làm cản sự lưu thông máu của các tĩnh mạch ở chân và tăng sức ép lên thành mạch chân, khi thành mạch không thắng được áp lực sẽ dễ bị giãn nở ra và gây phù do dịch thẩm thấu từ lòng mạch ra các mô xung tĩnh mạch bao gồm giãn tĩnh mạch tay, chân hay vùng mặt ... chúng có xu hướng cải thiện một khi thai kỳ của bạn kết thúc, thường trong vòng ba đến bốn tháng sau khi bạn sinh con, mặc dù đôi khi phải mất nhiều thời gian hơn. Tuy nhiên, bạn sẽ ít thấy chúng co lại nhiều như vậy nếu bạn bị giãn tĩnh mạch trước khi mang thai, đã mang thai nhiều lần, có tiền sử gia đình bị giãn tĩnh mạch, thừa cân béo phì hoặc có công việc phải đứng trong thời gian dài. Giãn tĩnh mạch chân rất thường gặp ở phụ nữ sau sinh Suy giãn tĩnh mạch ở giai đoạn sớm không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng tới mỹ quan người bệnh và chất lượng cuộc sống bị ảnh hưởng. Tuy vậy, nếu không kịp thời chữa trị, bệnh có thể dẫn tới biến chứng tắc mạch máu có thể dẫn tới tử vong. Tuy nhiên, suy giãn tĩnh mạch thực sự nguy hiểm khi đa phần người mắc bệnh đều không có hoặc chưa hiểu biết đầy đủ về bệnh tình. Ngoài ra, họ còn ngại đi khám, không điều trị hoặc điều trị không đúng. Điều này dẫn đến những hậu quả rất khó bà mẹ cũng có thể gặp phải tĩnh mạch mạng nhện khi mang thai. Những mạch nhỏ gần kề da thường xuất hiện nhất ở mắt cá chân, trên chân hoặc mặt. Chúng được gọi là tĩnh mạch mạng nhện vì chúng thường có hoa văn giống mạng nhện hoặc tia nắng mặt trời với các nhánh nhỏ tỏa ra từ trung tâm hoặc đôi khi chúng trông giống như các nhánh cây hoặc các đường thẳng nhỏ riêng biệt không có hoa văn cụ thể. Tĩnh mạch mạng nhện không gây khó chịu, chúng thường biến mất hoàn toàn sau sinh. Giãn tĩnh mạch gây mất thẩm mỹ 2. Tôi có thể làm gì để giảm thiểu chứng giãn tĩnh mạch? Các mẹ có thể tham khảo các gợi ý sau để giảm thiểu chứng giãn tĩnh mạchTập thể dục hàng ngày. Thậm chí chỉ cần đi bộ nhanh xung quanh nhà có thể giúp ích cho sự lưu thông mạch máu của cao chân của bạn bất cứ khi nào có thể. Sử dụng ghế đẩu hoặc hộp để đặt chân lên khi bạn ngồi và kê cao chân trên gối khi bạn bắt chéo chân hoặc mắt cá chân khi ngồi hoặc đứng trong thời gian dài mà không nghỉ ngơi để di loại tất đặc biệt. Tất điều chỉnh sức ép, dày gấp đôi so với loại thông thường sẽ là lựa chọn tốt nhất. Những loại tất này có sẵn từ các cửa hàng thiết bị y tế và các hiệu thuốc. Chúng bị bó chặt ở mắt cá chân và lỏng hơn ở phần trên, giúp máu dễ lưu thông về tim bạn. Do đó, chúng giúp ngăn ngừa sưng và có thể tránh cho chứng giãn tĩnh mạch của bạn trở nên tồi tệ hơn. Để điều trị giãn tĩnh mạch chân, hãy mang tất trước khi ra khỏi giường vào buổi sáng, đồng thời sử dụng chúng cả ngày ngay cả khi bạn nằm. Chúng có thể gây khó chịu, đặc biệt là trong thời tiết nóng, nhưng bị giãn tĩnh mạch còn khó chịu hơn bóp, mát-xa chân với tinh dầu pha loãng hoặc kem dưỡng ẩm các vùng bị ảnh hưởng của suy giãn tĩnh mạch có thể giữ cho máu di chuyển tốt hơn trong tĩnh mạch, có thể giúp giảm đau chân và giảm sưng chân hoặc phù nề do suy giãn tĩnh bạn thừa cân béo phì, hãy nói chuyện với bác sĩ chăm sóc sức khỏe của bạn về một kế hoạch giảm cân sau sinh an toàn cho mẹ và béBạn có thể tập luyện nhẹ nhàng chọn các hình thức ít gắng sức, không tăng áp lực lên chân, do đó không nên tập các môn như tập aerobic, nâng tạ, chạy... Nên đi bộ, đạp xe, bơi lội, như thế sẽ giúp cho việc lưu hồi máu tĩnh mạch từ chân về tim được dễ dàng hơn, giảm các triệu chứng lâm sàng. Điều cần thiết là phải giữ cho cổ chân được di động liên tục. Khi tập luyện cũng không nên nín thở vì nín thở làm tăng áp lực máu. Một số tư thế yoga cũng tốt cho bệnh suy giãn tĩnh mạch như tư thế hổ mang, tư thế trồng chuối, tư thế cây nến, cái cày... Đi bộ nhẹ nhàng giúp làm giảm các triệu chứng của giãn tĩnh mạch Bổ sung vào chế độ ăn giàu kali như hạnh nhân và các loại hạt, quả như đậu lăng, khoai tây, rau lá xanh, một số loại cá biển...và thực phẩm giàu chất xơ dễ tiêu hóa và ngăn ngừa táo bón. Bổ sung các loại thực phẩm có chứa flavonoid giúp cải thiện lưu thông máu và làm giảm nguy cơ máu tích tụ trong tĩnh mạch. Chúng cũng giúp giảm huyết áp trong các động mạch và có thể làm giãn mạch máu, giảm tình trạng giãn tĩnh mạch. 3. Có cách nào để thoát khỏi chứng giãn tĩnh mạch? Nếu chứng giãn tĩnh mạch của bạn không cải thiện sau khi bạn sinh con và khiến bạn khó chịu, hoặc ngay cả khi bạn không hài lòng với vẻ ngoài của chúng, bạn có nhiều lựa chọn khác nhau để điều trị chúng. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng ngay cả khi bạn thoát khỏi chứng giãn tĩnh mạch, các tĩnh mạch khác có thể bị giãn tĩnh mạch trong tương lai, đặc biệt nếu bạn dễ bị di truyền, mang thai lần nữa hoặc thừa cân. Vì vậy, tùy thuộc vào tình huống của bạn, bạn có thể được khuyên nên trì hoãn điều trị cho đến khi bạn sinh con xong. Giãn tĩnh mạch sẽ không cải thiện nếu bạn tiếp tục mang thai Nếu bạn quan tâm đến việc tìm hiểu về các lựa chọn điều trị hoặc bác sĩ của bạn quan tâm và nghĩ rằng đôi chân của bạn cần được bác sĩ chuyên khoa đánh giá, họ sẽ giới thiệu bạn đến một bác sĩ hoặc phòng khám chuyên về rối loạn mạch máu. Một chuyên gia chẳng hạn như bác sĩ phẫu thuật mạch máu hoặc da liễu sẽ kiểm tra chân của bạn và có thể yêu cầu siêu âm đặc biệt để có một bức tranh đầy đủ hơn về vấn đề của bạn. Sau khi đánh giá bạn, chuyên gia sẽ phác thảo các lựa chọn của bạn và các rủi ro, lợi ích và chi phí của các quy trình khác nhau có thể được sử dụng để điều trị vấn đề của nhiều phương pháp điều trị khác nhau, và phương pháp mà bạn sử dụng sẽ phụ thuộc vào mức độ suy tĩnh mạch của bạn nghiêm trọng như thế nào. Đôi khi phương án tốt nhất là sự kết hợp của các kỹ thuật. Nếu chứng giãn tĩnh mạch của bạn gây ra các triệu chứng hoặc chuyên gia xác định rằng sự lưu thông ở chân của bạn bị tổn hại, bảo hiểm của bạn có thể chi trả cho tư vấn và phương pháp điều trị cần thiết, các quá trình thực hiện vì lý do thẩm mỹ sẽ không được bảo hiểm chi trả. 4. Suy tĩnh mạch có nghiêm trọng? Giãn tĩnh mạch có thể ngứa hoặc đau, và chúng có thể khó coi, nhưng nói chung chúng vô hại trong thời gian ngắn. Nhưng đối với một số phụ nữ - những người có vấn đề về tuần hoàn không tự cải thiện sau khi mang thai và không được điều trị sau đó - tình trạng có thể tiến triển theo thời gian. Cuối cùng, nó có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng như sưng, thay đổi da, loét chân, chảy máu, giãn lớn các tĩnh mạch nông, viêm tĩnh mạch nông huyết khối, huyết khối tĩnh mạch sâu...Một tỷ lệ nhỏ những người bị giãn tĩnh mạch phát triển các cục máu nhỏ gần bề mặt da một tình trạng gọi là huyết khối tĩnh mạch nông. Khi loại cục máu đông này phát triển, tĩnh mạch có thể cảm thấy cứng và giống như dây thừng, và khu vực xung quanh nó có thể trở nên đỏ, nóng, đau khi chạm vào. Những cục máu này hiếm khi nghiêm trọng, nhưng các mẹ hãy nhớ chia sẻ với bác sỹ để điều trị kịp thời nhé. Giãn tĩnh mạch thường xuất hiện ở cổ chân Đôi khi, khu vực xung quanh cục máu đông bị nhiễm trùng trong trường hợp đó bạn có thể bị sốt hoặc ớn lạnh, và bạn sẽ cần được điều trị kịp thời bằng kháng sinh. Cũng gọi cho bác sĩ của bạn ngay lập tức nếu một trong hai chân của bạn bị sưng lên hoặc có vết loét, đồng thời da gần tĩnh mạch thay đổi màu sắc. Những triệu chứng này cho thấy một vấn đề nghiêm trọng hơn về lưu thông máuCác mẹ đừng nhầm lẫn huyết khối tĩnh mạch nông với một tình trạng nghiêm trọng gọi là huyết khối tĩnh mạch sâu, trong đó cục máu đông phát triển trong các tĩnh mạch sâu, thường ở chân. Mang thai khiến bạn dễ bị huyết khối tĩnh mạch sâu hơn dù bạn có bị giãn tĩnh mạch hay không, nhưng nó không phổ biến. Tỷ lệ này trong khi mang thai hoặc trong những tuần sau khi bạn sinh là khoảng 1/ Phụ nữ bị rối loạn đông máu hoặc nằm trên giường kéo dài có nguy cơ cao hơn.Huyết khối tĩnh mạch sâu có thể không có triệu chứng, hoặc bạn có thể bị sưng đau đột ngột, đau ở mắt cá chân, chân và đùi. Nó có thể đau hơn khi đứng hoặc gập chân lại, và bạn cũng có thể bị sốt nhẹ. Nếu bạn nhận thấy bất kỳ triệu chứng nào trong số này, hãy gọi cho bác sĩ của bạn ngay lập tức. Giãn tĩnh mạch có thể gây ra huyết khối tĩnh mạch Trong trường hợp bạn bị một trong những cục máu đông này, bạn sẽ cần phải nhập viện và điều trị bằng thuốc để làm loãng máu. Nếu không được điều trị, cục máu đông có thể vỡ ra và di chuyển đến phổi, một tình trạng đe dọa tính mạng được gọi là thuyên tắc động mạch phổi. Các dấu hiệu của tắc mạch phổi bao gồm khó thở, thở đau, ho hoặc ho ra máu, cảm giác hoảng loạn và nhịp tim nhanh và nên nhanh chóng tới bệnh tra sức khỏe định kỳ giúp phát hiện sớm bệnh tật, từ đó có kế hoạch điều trị đạt kết quả tối ưu. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Nguồn tham khảo XEM THÊM Những điều xảy ra với làn da khi bạn già đi Khi nào cần mang vớ y khoa trị suy giãn tĩnh mạch? Bài tập điều trị bệnh nhân suy van tĩnh mạch chân Dịch vụ từ Vinmec
Nguồn chủ đề Suy tĩnh mạch là tĩnh mạch dãn rộng ở các chi dưới. Thông thường, không có nguyên nhân rõ ràng. Suy tĩnh mạch thường không có triệu chứng nhưng có thể gây cảm giác căng giãn, áp lực và đau hoặc tăng áp lực ở chân. Chẩn đoán thăm khám lâm sàng. Điều trị có thể bao gồm ép, chăm sóc vết thương, tiêm xơ và phẫu thuật. Các triệu chứng và dấu hiệu của giãn tĩnh mạch Suy tĩnh mạch ban đầu có thể gây căng và sờ rõ ràng nhưng không nhất thiết phải nhìn thấy được. Sau đó, chúng có thể dần dần mở rộng, nhô ra và trở nên rõ ràng; chúng có thể gây ra cảm giác căng, mệt mỏi, áp lực, và đau ở chân. Các tĩnh mạch giãn thấy rõ nhất khi bệnh nhân đứng. Vì các lý do không rõ ràng, viêm da và loét là không phổ biến. Khi da thay đổi ví dụ như độ cứng, sắc tố, chàm xảy ra, chúng thường ảnh hưởng kéo dài đến tận dưới cẳng chân, tới mắt cá. Vết loét có thể phát triển sau khi bị chấn thương nhẹ tại vùng bị ảnh hưởng; chúng thường nhỏ, nông, và gây đau. Suy tĩnh mạch thường gây tắc, gây đau. Suy tĩnh mạch nông có thể gây ra các khối tĩnh mạch mỏng trên da, có thể vỡ và chảy máu sau khi bị chấn thương nhẹ. Rất hiếm khi chảy máu, nếu không phát hiện được trong khi ngủ, sẽ gây tử vong. Đánh giá lâm sàngĐôi khi siêu âm Doppler mạchChẩn đoán thường rõ ràng từ việc thăm khám lâm sàng. Thử nghiệm Trendelenburg so sánh việc tiêm tĩnh mạch trước và sau khi tháo garo không còn được sử dụng để xác định lưu lượng máu ngược dòng qua các van bị suy. Siêu âm Doppler là một thăm dò chính xác, nhưng không rõ liệu nó có thực sự cần thiết một cách thường quy. Tất áp lựcĐôi khi liệu pháp xâm lấn tối thiểu ví dụ, liệu pháp xơ hóa, cắt bỏ nhiệt hoặc phẫu thuậtViệc điều trị nhằm mục đích làm giảm các triệu chứng, cải thiện diện mạo của chân và trong một số trường hợp, ngăn ngừa các biến chứng của chứng giãn tĩnh mạch. Điều trị bao gồm tất áp lực và chăm sóc vết thương tại chỗ khi cần pháp điều trị xâm lấn tối thiểu như tiêm xơ và phẫu thuật được chỉ định để dự phòng huyết khối tĩnh mạch tái phát và những thay đổi ở da; các phương pháp này cũng thường được sử dụng vì lý do thẩm mỹ. Tiêm xơ sử dụng chất gây kích ứng ví dụ, natri tetradecyl sunfat để gây ra phản ứng huyết khối tĩnh mạch, làm xơ hóa và tắc mạch; tuy nhiên, nhiều tĩnh mạch bị giãn trở lại. Phẫu thuật liên quan đến thắt tĩnh mạch hoặc tách đi những tĩnh mạch dài và đôi khi là các mạch máu ngắn. Các phương pháp này giúp giảm triệu chứng tốt trong thời gian ngắn, nhưng hiệu quả lâu dài là kém ví dụ bệnh nhân thường phát triển thành suy tĩnh mạch. Đốt nhiệt bằng cách sử dụng tia laser hoặc sóng vô tuyến là một công cụ xâm lấn tối thiểu để điều trị suy tĩnh sử dụng phương pháp điều trị nào đi nữa, tình trạng giãn tĩnh mạch sẽ dễ tái phát, và điều trị thường phải lặp lại vô thời hạn. Phình động mạch lách phổ biến ở nữ giới hơn nam triệu chứng có thể bao gồm đầy bụng, mệt mỏi, chảy máu và đau hoặc tăng cảm giác ở chân; viêm da ứ trệ và loét tĩnh mạch không phổ trị có thể bao gồm tất ép, liệu pháp xơ hóa, phẫu thuật xâm lấn tối thiểu hoặc cắt bỏ bằng nhiệtBất kể điều trị, giãn tĩnh mạch thường tái phát. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
giãn tĩnh mạch sau sinh