Khám âm đạo khi CTC đã mở, sờ thấy gốc mũi ở vị trí gai mào chậu lược phải, cách đọc kiểu thế nào sau đây là đúng: A. Trán chậu phải sau.59 B. Mũi chậu phải trước. C. Cằm chậu phải trước. Khi khám một trường hợp chuyển dạ ngôi chỏm, sờ được thóp sau ở -Anh : Một bước tiến quan trọng là sự phát triển hội họa phong cảnh của nhóm họa sĩ ở ngoại ô một thành phố tỉnh nhỏ thuộc miền đông vào đầu TK 19. Nghệ thuật của họ dần dà trở thành một trường phái lấy tên theo địa danh họ hoạt động làm tên gọi : "trường phái Nôrích" gồm các danh họa như - Hàng không đúng size, kiểu dáng như quý khách đặt hàng - Không đủ số lượng, không đủ bộ như trong đơn hàng. 3. Trường hợp không đủ điều kiện áp dụng chính sách: - Quá 07 ngày kể từ khi Quý khách nhận hàng - Gửi lại hàng không đúng mẫu mã, không phải hàng của Choobe 1. Các kiểu thắt nơ đẹp 1.1 Thắt nơ truyền thống. Bước 1: Để dây ruy băng cân bằng về chiều dài, nên để ruy băng thẳng tắp, không để dây bị quấn hoặc xoắn lại với nhau. Bước 2: Đặt dây 1 lên dây 2 chéo nhau (dây 1 hay 2 thì chọn dây nào cũng được). Bước 3: Luồn dây 1 lên cổ theo hướng từ ngoài vào trong. Không phải tự bản thân môi trường mà chính là hoạt động của con người với môi trường đã đóng vai trò quyết định trong việc hình thành tính cách của họ. Do đó đánh giá tính cách phải thông qua kiểu hành vi. Tính cách không được thể hiện ra hành vi thì cũng sẽ - Trong trường hợp chưa xuất hiện biểu tượng như hình trên. Bạn ấn tổ hợp phím Ctrl + Shift hoặc Alt + Z. Cách gõ tiếng Việt có dấu 1. Cách gõ kiểu Telex Hiện nay cách đánh tiếng Việt kiểu Telex là thông dụng hơn. Lý do chính có lẽ là do kiểu gõ Telex nhanh hơn, vì mình chủ yếu sử dụng kiểu gõ này. HU0MzZ. Trường phái kiểu cách là một trào lưu nghệ thuật xuất phát ở Ý khoảng từ 1520 tới 1580, tiếp sau thời kỳ Phục Hưng. Các nghệ sĩ trường phái kiểu cách chủ trương đề cao kỹ thuật, cần sảnh sỏi, cố dụng tâm làm sao cho thanh cao. Họ tôn thờ cái đẹp ưu khoái lạc đến mức kỳ dị, ngôn ngữ bất thường. Nghệ thuật kiểu cách bị xem như sa sút, kém hài hòa và duyên dáng so với thế hệ trước đó.[1] Parmigianino, Madonna with the Long Neck 1534-40 Ban đầu, nghệ thuật kiểu cách cũng có sức hút nhất định, song càng về sau, trường phái này càng sa sút và đi tới thoái trào. Hội họa phương Tây sau đó bước đến thời kỳ Baroque.[1] “Trường phái’’ trong hội họa là thuật ngữ dùng để chỉ một phong cách nghệ thuật thể hiện phương pháp và kỹ thuật riêng của các họa sĩ. Hiện nay, các trường phái mỹ thuật hiện đại rất đa dạng. Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ nêu ra những trường phái nghệ thuật tiêu biểu nhất. Tìm hiểu các trường phái hội họa hiện đại tiêu biểu Tính đến thời điểm hiện tại, có vô vàn trường phái mỹ thuật xuất hiện trên toàn thế giới, tại nhiều quốc gia và thời điểm khác khau. Tiêu biểu có thể kể đến các trường phái sau. Trường phái ấn tượng Đây là trào lưu nghệ thuật xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 tại Pháp. Đặc trưng của các bức tranh thuộc trường phái này chính là sự thay đổi ánh sáng với những màu sắc được kết hợp hài hòa, ấn tượng. Tác phẩm “Cô gái và chiếc ô” của họa sĩ Claude Monet Một số họa sĩ tiêu biểu của trường phái ấn tượng có thể kể đến như Édouard Manet, Paul Cezanne, Mary Cassatt,... Trường phái dã thú Sự xuất hiện của trường phái dã thú đã khắc phục được nhược điểm của trường phái ấn tượng. Đó là, tập trung chủ yếu vào ánh sáng và không làm nổi bật được đường nét cảnh vật, đối tượng trong bức tranh. Tranh trường phái dã thú với sự “nổi loạn” về màu sắc Dã thú là một trong các trường phái mỹ thuật hiện đại, thể hiện cá tính mạnh mẽ với những đường nét đậm màu, dứt khoát để mô tả các đối tượng trong bức tranh. Có thể nói, tranh trường phái nghệ thuật dã thú mang phong cách “nổi loạn’’ về màu sắc theo quy luật có dự tính trước. Một số họa sĩ tranh trường phái dã thú tiêu biểu có thể kể đến như Henri Matisse, Vlaminck, Andre Derain,... Trường phái biểu hiện Đây là một trong các trường phái mỹ thuật hiện đại đặc biệt. Bởi, không chỉ được biểu hiện trong hội họa, trường phái này còn xuất hiện trong văn học, điện ảnh,... Trường phái biểu hiện xuất hiện vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và phát triển chủ yếu ở các quốc gia châu Âu. Đặc điểm của trường phái này là tập trung phơi bày sự khốn khổ về cả thể xác lẫn tinh thần của con người trong xã hội một cách thuần túy nhất. Bức tranh “Blue Horse” của họa sĩ Franz Marc Song song đó, bạn cũng có thể nhận biết tranh thuộc trường phái biểu hiện với những vệt màu dày cùng 2 màu sắc nổi bật là đen và đỏ. Một số họa sĩ tiêu biểu của trường phái biểu hiện là Franz Marc, Edvard Munch, Emil Nolde,... Trường phái lập thể Chủ nghĩa lập thể trong hội họa mang đến cái nhìn đa chiều hơn Nhắc đến các trường phái mỹ thuật hiện đại, chắc hẳn lập thể là một cái tên không thể thiếu. Đây được xem là trường phái hội họa tạo ra cuộc cách mạng lớn vào đầu thế kỷ 20 tại nhiều quốc gia châu Âu. Điểm đặc biệt của các bức tranh thuộc trường phái nghệ thuật này chính là cách thể hiện không theo quy luật nhất định. Tại một thời điểm, cùng một đối tượng nhưng sẽ có nhiều cách thể hiện khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng. Đối tượng trong tranh lập thể khá trừu tượng, được tạo nên từ nhiều mảng nhỏ, sắp xếp chồng chéo lên nhau một cách ngẫu nhiên. Các họa sĩ tiêu biểu của trường phái lập thể như Pablo Picasso, Georges Braque,... Trường phái siêu thực Đây là một trong các trường phái mỹ thuật hiện đại rất được quan tâm vào đầu thế kỷ 20 bởi tính bí ẩn và độc đáo. Trường phái tranh nghệ thuật này ra đời với tư tưởng chống lại chủ nghĩa Dada, vốn là một trào lưu sáng tạo phản nghệ thuật lúc bấy giờ. Tác phẩm tranh trường phái siêu thực - The Accommodations of desire của họa sĩ Salvador Dali 1929 Các tác phẩm hội họa thuộc trường phái siêu thực thường mang tính biểu tượng, trực quan và thể hiện sự bất mãn đối với chủ nghĩa Dada. Một số họa sĩ nổi tiếng với trường phái tranh siêu thực có thể kể đến như Salvador Dalí, Yves Tanguy, Joan Miró,... Trường phái tương lai Không giống như các trường phái mỹ thuật hiện đại khác, trường phái tương lai đi sâu vào lột tả những mâu thuẫn, sự bất mãn với xã hội đương thời. Các bức tranh thuộc trường phái này được sắp xếp theo bố cục không rõ ràng, chồng chéo lên nhau với màu sắc, độ sáng phức tạp. Tranh trường phái tương lai là sự kết hợp độc đáo của các hình khối chồng chéo Trường phái trừu tượng Xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, trường phái trừu tượng là loại hình nghệ thuật phi vật thể độc đáo, dẫn đầu xu hướng hội họa hiện đại thời bấy giờ. Với tranh trường phái trừu tượng, các hình khối, đường nét, màu sắc được kết hợp hài hòa, tự do theo cảm nhận và tư duy riêng của người vẽ. Tranh trừu tượng “Xuân và rừng” của họa sĩ Nguyễn Quang Tuấn Một số họa sĩ tiêu biểu đại diện cho trường phái tranh trừu tượng như Robert Delaunay, Sonia Delaunay, Wassily Kandinsky,... Trường phái nghệ thuật nhận thức Bức tranh “Spatial Concept ' Waiting'' - Lucio Fontana Nghệ thuật nhận thức là trường phái cuối cùng kết thúc kỷ nguyên của các trường phái mỹ thuật hiện đại. Bản chất nghệ thuật của các bức tranh thuộc trường phái này chính là chú trọng đến tiến trình, tạo ra một cấu trúc nghệ thuật với tạo hình hoàn toàn mới, lấy không gian và thị giác làm giá trị cốt lõi. >>> Xem thêm 10 mẫu tranh sơn dầu sơn thủy hữu tình Tuy có nhiều điểm khác biệt về màu sắc, cách sắp xếp bố cục, đối tượng,... nhưng các trường phái nghệ thuật hiện đại tiêu biểu mà chúng tôi đã tổng hợp ở trên đều đóng góp một phần không nhỏ và tạo nên sự phát triển bền vững cho nền hội họa thế giới. Trong suốt thời kỳ Phục hưng, họa sĩ Ý được truyền cảm hứng từ những tác phẩm cổ trung đại mang vẻ đẹp hài hòa và tinh tế. Nổi bật trong giai đoạn này là hai danh họa xuất chúng Michelangelo và Leonardo da Vinci. Trường phái Kiểu cách chính là phong trào hội họa Hậu Phục nghệ sĩ thuộc trường phái Kiểu cách đã tìm tòi và sáng tạo dựa trên nền tảng kỹ thuật hội họa Phục hưng. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về lịch sử hình thành và phát triển cùng những đặc điểm nổi bật của trường phái nghệ thuật phái Kiểu cách là gì?Trường phái Kiểu cách là một trào lưu hội họa xuất hiện vào năm 1503 và kéo dài trong một thế kỷ. Tên gọi Kiểu cách’ mannerism có nguồn gốc từ tiếng Ý maniera’ nghĩa là kiểu cách’. Nó phản ánh phong cách cường điệu và phóng đại của nghệ sĩ đương Wtewael, “Persus and Andromeda,” 1611Được biết tới như phong trào nghệ thuật Hậu Phục hưng, trường phái Kiểu cách có khuynh hướng cường điệu hóa kho tàng tạo hình của Phục hưng, là cầu nối giữa giai đoạn đầu Phục hưng và giai đoạn Baroque về sử hình thành và phát triểnVào cuối thế kỷ 15, số đông họa sĩ vùng Florence đã chuyển mình từ phong cách cổ đại sang cổ điển, mở đầu cho phong trào nghệ thuật Phục hưng diễn ra từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17 với ba giai đoạn Sơ Phục hưng, Thịnh Phục hưng và Hậu Phục thời kỳ Sơ Phục hưng, các họa sĩ bắt đầu tìm cảm hứng từ những tác phẩm cổ xưa, là tiền đề cho sự ra đời của phong trào nghệ thuật thời kỳ Thịnh Phục hưng, được đánh dấu bằng những tác phẩm mang phong cách hiện thực hóa. Giai đoạn Thịnh Phục hưng kéo dài từ năm 1490 tới những năm 1530 cho tới khi trường phái Kiểu cách khởi dù hứng thú với chủ nghĩa hoàn hảo của thời kỳ Thịnh Phục hưng, họa sĩ thuộc trường phái Kiểu cách không muốn sao chép một cách khuôn sáo. Thay vào đó, họ phóng đại những nguyên tắc sẵn có, thay thế tĩnh chỉ bằng hình thái động, chú trọng vào cảm xúc hơn là lý trí, biểu hiện nội tâm hơn là mô tả ngoại vật, dùng sức mạnh của tưởng tượng sáng tạo hơn là sao chép thiên nhiên. Ở góc nhìn nào đó, trường phái Kiểu cách biểu thị một cuộc nổi loạn chống lại không khí cân bằng hài hòa bình dị của Phục Hưng. Hội họa Phục Hưng luôn coi trọng sự cân bằng, tỷ lệ, còn trường phái Kiểu cách thì nhấn mạnh đến sự tao nhã trong trạng thái dị thường bất cân xứng. Đặc điểm nổi bật Hình ảnh phóng đạiBản chất của trường phái Kiểu cách chính là cường điệu hóa. Được tiên phong bởi họa sĩ người Ý Parmigianino, các họa sĩ phái Kiểu cách bác bỏ lối vẽ với tỉ lệ chính xác, thay vào đó, họ diễn tả cơ thể con người được kéo dài chân tay và uốn cong trong một cử động mạnh. Kỹ thuật này phản ánh bước tiến của hội họa và gia tăng nét đặc sắc cho tác “Madonna with Long Neck,” 1534-1540Theo như Giorgio Vasari, một họa sĩ, kiến trúc sư, nhà sử học và nhà văn xuất chúng người Ý, Parmigianino đã vô tình khám phá ra lối vẽ này khi đang họa chân dung bản thân. “Nghiên cứu về nét tinh tế của hội họa,”, Vasari đề cập tới Parmigianino trong quyển sách lịch sử hội họa nổi tiếng của mình, Cuộc đời các danh họa’, “ngày nọ, ông tiến hành bức chân dung tự họa, nhìn vào chiếc gương tròn, ông nhận thấy hiệu ứng kì lạ lên hình ảnh phản chiếu. Cánh tay của chủ thể ở mặt trước cong vòng lên theo mặt cong của kính, và người xem tranh cũng thấy được sự biến dạng tương tự ở cái cửa sổ phía trên bên trái, góc mái nhà ở phía trên bên phải. Điều này thôi thúc ông áp dụng hiệu ứng đó vào tác phẩm”.Parmigianino, “Self-Portrait in a Convex Mirror,” ca. 1523-1524 Nghệ thuật trang tríĐể nâng tầm hội họa thời Phục hưng, họa sĩ phái Kiểu cách đưa vào tác phẩm những khung cảnh, sự trang hoàng xa hoa. Ngược lại với thế hệ họa sĩ thịnh Phục hưng, họa sĩ Sơ Phục hưng thường kết hợp nhiều họa tiết vào tác phẩm. Được truyền cảm hứng từ tấm thảm millefleur thời Trung đại nghĩa là hàng nghìn bông hoa’ trong tiếng Pháp, Botticelli đã đưa họa tiết hoa cỏ vào những bức họa thần thoại lớn mà tiêu biểu là Primavera’.Botticelli, “Primavera,” ca. c. 1477–1482 Lần lượt từng họa sĩ phái Kiểu cách đều nảy sinh hứng thú với nghệ thuật trang trí này, họ phủ đầy bức vẽ cùng tác phẩm điêu khắc với vô vàn ý tưởng. Đỉnh cao của phong cách này là danh họa Giuseppe Arcimboldo, người đã thực hiện hàng loạt bức chân dung độc nhất vô nhị từ cây cỏ, động vật hoặc bất kỳ một chất liệu nào có Arcimboldo, “Spring,” 1573 Bảng màu độc lạCuối cùng, họa sĩ phái Kiểu cách từ chối sử dụng những màu sắc phổ biến từ thời kỳ Thịnh Phục hưng, thay vào đó, họ sử dụng màu tự chế, đặc biệt là những gam màu rực rỡ. Điều này được thể hiện rõ nét qua các tác phẩm của danh họa người Ý Jacopo da Pontormo, người đã đã đưa kỹ thuật sử dụng màu sắc của thời đại Phục hưng lên một tầm cao “The Deposition,” 1526-1528 El Greco, một họa sĩ Kiểu cách người Tây Ban Nha cũng khá nổi tiếng với kỹ thuật này khi chuyển tới Rome. Như những họa sĩ Kiểu cách khác, El Greco học hỏi nhiều từ thế hệ đi trước mà vẫn giữ được cái tôi’ trong hội họa. El Greco, “The Vision of Saint John, or The Opening of the Fifth Seal,” ca. 1609-1614 Di sản Là một trong những trào lưu hội họa có tầm ảnh hưởng lớn của thời kỳ Phục hưng nhưng Trường phái Kiểu cách không được đón nhận rộng rãi như những phong trào nghệ thuật trước đó. Dù vậy, những tìm tòi và sáng tạo của nghệ sĩ phái Kiểu cách là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của những trường phái nghệ thuật về sau. Triển lãm Trường phái nghệ thuật Kiểu cách Trường phái kiểu cách Mannerism là một trào lưu nghệ thuật xuất phát ở Ý khoảng từ 1520 tới 1580, tiếp sau thời kỳ Phục Hưng. Các nghệ sĩ trường phái kiểu cách chủ trương đề cao kỹ thuật, cần sảnh sỏi, cố dụng tâm làm sao cho thanh cao. Họ tôn thờ cái đẹp ưu khoái lạc đến mức kỳ dị, ngôn ngữ bất thường. Nghệ thuật kiểu cách bị xem như sa sút, kém hài hòa và duyên dáng so với thế hệ trước đó – Lịch sử mỹ thuật thế giới của Phạm Thị Chỉnh, trang 118. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2008. Rốt cục thì thời đại kiểu cách, phong cách của trường phái kiểu cách mannerism chính xác là cái gì? Nói một cách đơn giản, nó là đáp án khả dĩ cho câu hỏi mà nghệ thuật phương Tây đặt ra suốt thời kỳ đỉnh cao Phục Hưng “Đến đây rồi thì chúng ta sẽ đi tiếp đến đâu?”. Trong hơn ba thế kỷ, các nghệ sĩ đã nỗ lực hoàn thiện kỹ thuật hội họa để gợi lại chất lượng nghệ thuật cổ đại được tìm thấy từ Hy Lạp và La Mã, để tôn vinh những vị thần của Kinh Thánh mà họ rất mực tôn sùng. Mục tiêu của họ là hoàn toàn loại bỏ những thủ pháp nghệ thuật cổ xưa như việc phối cảnh theo thứ bậc, ở đó những nhân vật “quan trọng” được miêu tả to lớn hơn những ai được xem là không mấy quan trọng. Mục đích khác còn là để hoàn thiện những kỹ thuật như phối cảnh không gian, qua việc vẽ rút gọn theo luật xa gần foreshortening và để các sắc thái mờ hòa vào nhau sfumato vốn tạo nên độ chân thực cho chiều sâu và không gian trong bức tranh. Họa sĩ Phục Hưng muốn hoàn thiện những thứ như là “chiaroscuro” sự phối hợp màu sáng tối trong hội họa, để ánh sáng và bóng tối dường như phát ra từ cùng một nguồn duy nhất, và tạo ra cảm giác chân thực bằng việc vẽ lại chính xác tỷ lệ người và vật. Họ khao khát kiến tạo cái đẹp trong màu sắc, hình khối và xúc cảm. Như vậy, với các nghệ sĩ châu Âu mà chúng ta gọi là “Phục Hưng đời đầu” – “những họa sĩ như Giotto di Bondone 1266 – 1337 , rồi đến thời kỳ đỉnh cao Phục Hưng với cái chết của Raffaello Sanzio da Rubino hay “Raphael” 1483-1520, và Albrecht Durer 1471 – 1527, toàn bộ tâm sức của họ dồn vào hoàn thành những mục đích trên đây. Thế nhưng, thật đáng kinh ngạc, họ bằng nỗ lực đã đạt đến tuyệt đích, không ai mảy may nghĩ đến chuyện giờ đây khi đã ở đỉnh cao của tranh vẽ hai chiều, hội họa phương Tây sẽ biết đi về đâu. Cần phải hiểu, những mục đích trên kia vốn được coi như là một lời kêu gọi thiêng liêng, nó luôn là một cái đích trước mắt, một lý tưởng không thể đạt tới, một thứ mà “tất cả chúng ta cùng hướng đến”, một chiến quả đáng ao ước nhưng vượt quá tầm tay. Thật không may, tất cả những mục đích về trỗi dậy, trưởng thành và phát triển đều đã được thỏa nguyện, giờ thì sao? Ở đỉnh cao, làm sao để tiến bước? Một câu trả lời, và có lẽ là câu trả lời hay hơn, trong lĩnh vực nghệ thuật hội họa lúc ấy, là phong cách Baroque. Nhưng với Michelangelo Buonarroti, một nghệ sĩ Ý trong thời đỉnh cao Phục Hưng, người sống lâu hơn đối thủ Raphael của mình những 44 năm, thì câu trả lời cho giai đoạn 1520 – 1580 lại là trường phái kiểu cách. Ở góc nhìn nào đó, trường phái kiểu cách biểu thị một cuộc nổi loạn chống lại không khí cân bằng hài hòa bình dị của Phục Hưng. Hội họa Phục Hưng luôn coi trọng sự cân bằng, tỷ lệ, còn trường phái kiểu cách thì nhấn mạnh đến sự tao nhã trong trạng thái dị thường bất cân xứng. Trường phái kiểu cách “nhân tạo” hơn, nó ưa chuộng thứ áp lực ít tự nhiên, ít chân thực hơn so với Phục Hưng, và dùng chúng như biểu tượng hoặc vẻ đẹp phóng đại. Nhân vật trong bức vẽ thường có sự biến dạng và trừu tượng, nhưng những lựa chọn phong cách dị thường như vậy không nhất thiết phải phục vụ cho mục đích nào cả. Để rõ hơn, hãy cùng xem xét bức “Chân dung tự họa qua gương lồi” 1524 của Parmigianino dưới đây. Đầu tiên, phải nói rằng đây là bức tranh không thể có ở giai đoạn 30 năm trước đó. Nó vẽ lại chính xác hình ảnh phản chiếu trong một gương lồi. Cánh tay của chủ thể ở mặt trước cong vòng lên theo mặt cong của kính, và người xem tranh cũng thấy được sự biến dạng tương tự ở cái cửa sổ phía trên bên trái, góc mái nhà ở phía trên bên phải. Đó chính xác là những gì người ta nhìn thấy qua một gương lồi, và với những người thế kỷ 21 như chúng ta, nó có cùng ý tưởng với bức vẽ “Hand with Reflecting Sphere” của M. C. Escher. Trong cả hai bức tranh, chúng ta đều cảm thấy sự méo mó được tạo ra bởi góc nhìn qua gương lồi phản xạ, vậy vấn đề ở đây là gì? Trong bức chân dung của Parmigianino, thực ra chỉ phần nhỏ bị bóp méo. Có một bức tường phẳng đằng sau khuôn mặt chủ thể, nhưng nó phẳng, nên không có sự biến dạng. Tác dụng bóp méo chỉ là cách sắp đặt thứ yếu, thậm chí dư thừa ở viền khung, còn ở trung tâm thì không có sự bóp méo nào cả bởi nó nằm trở chính giữa gương cầu, vậy nên bức chân dung thực ra không hơn gì một bức tranh thông thường, và nó không mang đến điều gì nổi bật hơn nữa. Nó khiến người xem phải tự hỏi “Thế rốt cuộc thì ý ông là gì?”. Ngược lại, bức chân dung của Escher đã hướng sự chú ý của chúng ta tập trung vào bàn tay người nghệ sĩ và ảnh phản chiếu của nó, chứ không phải khuôn mặt. Tuy khuôn mặt nằm ở trung tâm quả cầu, nhưng đó không phải là trung tâm trong tổng thể bức tranh. Bàn tay và hình phản chiếu của nó là trung tâm, được nhấn mạnh, trong khi khuôn mặt nghệ sĩ thì thật nhỏ bé, và sự biến dạng ấy đem đến cho bức tranh một vài điểm thú vị lôi cuốn người xem. Ngoài ra, ở chỗ mà Parmigianino đặt bức tường phẳng làm nền, Escher lại vẽ giá sách, đồ đạc, hai cửa sổ ở các góc khác nhau, và một trần nhà không phẳng lắm. Nói tóm lại, Escher bày biện nhiều chi tiết hơn trong bức vẽ của mình và mang đến cho người xem nhiều sự biến dạng hơn để tâm trí họ được chơi đùa thử thách. “Madona of the Long Neck” của Parmigianino là bức tranh tinh túy của trào lưu kiểu cách. Bạn không thể nghiên cứu trường phái này nếu bỏ qua nó. Trong tranh, Madonna bị kéo dài tới điểm chụp, đứa trẻ trong lòng cô cũng vậy. Cổ của cô, may mắn thay, hài hòa tỉ lệ cùng cỡ đầu nhỏ bé, trong khi bờ vai xanh xao thì thật bất cân xứng. Có một người đàn ông, không biết vẽ vào để làm gì, ở phía dưới bên phải bức tranh, và người xem thì không có manh mối khả dĩ nhìn được để so sách kích cỡ thân thể anh với Madonna. Thông thường sẽ có vạch trên sàn nền, hoặc vài dấu hiệu biểu hiện không gian khác, nhưng ở đây thì không, và tác giả để người xem phải tự kết luận rằng anh ta chỉ là người đàn ông vô cùng nhỏ bé bên cạnh Madonna. Đằng sau anh ta là một hàng cột dài, nhưng không thấy nối với mái, và không phục vụ cho mục đích nào cả. Vị trí ánh sáng phản chiếu ra từ hàng cột ngay phía trước cho thấy rằng những cột trụ này thon thon hình búp măng, ta tạm đoán vậy. Tuy nhiên, gần gốc của hàng cột nói trên là bóng của chúng, vị trí bóng đổ xuống cho biết khoảng cách giữa các cột đúng bằng chiều rộng mỗi cột, nhưng với kích thước của chúng, độ sâu của mỗi cột có thể không nhiều hơn vài inch còn chiều rộng của chúng thì rõ ràng phải lên đến vài feet. Với tất cả những điểm đó, bức tranh cũng có vài nét đẹp cách sử dụng màu sắc tốt, những lớp quần áo được vẽ xuất sắc, biểu hiện trên khuôn mặt người ở tiền cảnh thật đẹp, nhưng dù vậy, sự kết hợp giữa chúng thì vụng về hết biết. Cứ như thể tác giả, vốn đã được coi là đại diện ưu tú của trường phái kiểu cách, tuy rất có hiểu biết về vài mặt hội họa, nhưng đã bỏ qua không biết những điểm cơ bản nhất vậy. Và kể từ khi bức “The Madonna of the Long Neck” mở đầu cho thời đại này, có thể dễ dàng kết luận từ nó rằng trào lưu kiểu cách này có lẽ không khác gì một thời đại của những tác phẩm nghệ thuật xấu xí. Nhưng nếu điều đó là đúng, chúng ta phải nhìn vào người đã khởi sinh ra trào lưu này, để xem sai lạc bắt đầu từ đâu. Ai là bậc thầy nghệ thuật đã dẫn dắt những tâm trí trẻ trung đi lạc lối? Có nhiều người như vậy từ thời đỉnh cao Phục Hưng, nhưng cái tên nổi tiếng nhất là Michelangelo. Giai đoạn 1508 – 1512 Michelangelo đang vẽ trần nhà nguyện Sistine ở thành phố Vatican, Rome. Với nghệ thuật hai chiều thời Phục Hưng, tranh trần nhà nguyện của Michelangelo là kiệt tác và là nền tảng của giai đoạn đỉnh cao. Nó dài 131 feet, rộng 43 feet, diện tích là 5633 feet vuông, chứa 47 bức bích họa tuyệt đẹp kể câu chuyện về sự sa ngã của con người từ cuốn sách Genesis. Hai mươi ba năm sau, tức là mười lăm năn sau cái chết của Raphael, cũng là lúc đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn đỉnh cao Phụ Hưng ở nam châu Âu Ở bắc Âu, thời điểm 1528 được sử dụng vì nó trùng với cái chết của Albrecht Durer, nghệ sĩ Phục Hưng đỉnh cao của Đức, Michelangelo quay trở lại nhà nguyện Sistine trong một môi trường kinh tế xã hội thật khác, để vẽ bức tường phía sau, mô tả cảnh cuộc phán xét cuối cùng trong sách Khải huyền. Bức tường phía sau có diện tích không bằng một phần ba cái trần nhà, chỉ 45 x 40 ft 1800 ft vuông, nhưng Michelangelo đã mất bảy năm để hoàn thành nó trong khi ông vẽ trần nhà chỉ mất bốn năm. Nhìn chung, trừ với một số người không hứng thú với chủ đề của nó, còn lại có thể kết luận bức tường phía sau vẫn là tác phẩm tuyệt đẹp. Tuy nhiên nếu nhìn kỹ hơn, so sánh nó với bức họa vẽ trần mà Michelangelo hoàn thành trước đó, bạn sẽ nhận ra một số khác biệt đáng ngại. Trong cả hai bức tranh từ trần nhà nguyện Sistine, ta đều thấy có nhiều chất tự nhiên và hiện thực hơn. Những thân thể người được vẽ rất đúng tỉ lệ, tỉ lệ riêng của nó và với tương quan các bộ phận khác. Đặt sang một bên chuyện Michelangelo có phong cách miêu tả thân thể con người không thể bắt chước nổi, thì bức tranh vẫn hoàn toàn chân thực. Nhưng giờ hãy nhìn vào thân thể của Chúa trong bức “The Last Judgement”, bạn sẽ thấy một cơ thể toàn cơ bắp là cơ bắp, không có hông hay thắt lung. Thân mình, từ vai xuống đến chân gần như là một khối vuông. Đức Mẹ đồng trinh, người ngồi sau Chúa, đang ở một tư thế chẳng ai có thể giữ lâu, và được mô tả theo cách gợi ý rằng cô ấy đang giữ cố giữ tư thế ấy. Đúng vậy, người ta phải nhìn vào những bức tranh này với ý tưởng về biểu tượng và “một thế giới khác” ở trong đầu. Chúa được coi như một đấng quyền năng dồi dào, oai nghiêm hùng mạnh, trong khi Mary thì đoan trang nghiêm cẩn nhưng không thuộc về thế giới này. Nhưng biểu tượng dường như thu hút quá nhiều sự chú ý và làm mất đi ý nghĩa hàm ẩn của nó, đến mức người xem đều chỉ chú tâm vào sự biến dạng méo mó. Tuy vậy, hãy hiểu rằng, tôi không chỉ trích phê bình nghệ sĩ hay kỹ thuật của ông, mà tôi phê bình triết lý và ý thức hệ đằng sau phong cách kiểu cách này. Thành thật mà nói, có một số bức vẽ theo trường phái kiểu cách, tranh chân dung hay tranh kể chuyện gì đó, trông có vẻ kiểu cách chỉ bởi vì thời đại và vị trí của người nghệ sĩ. Nhưng có nhiều điều hơn có thể dẫn người ta đến kết luận rằng, nếu trường phái kiểu cách là câu trả lời cho câu hỏi chúng ta sẽ đến đâu sau khi đã ở đỉnh cao Phục Hưng, nó hẳn phải là một câu trả lời lầm lạc. Trào lưu kiểu cách từ gốc đến ngọn hầu như gói gọn trong phạm vi nước Ý. Nó không chuyển di theo bất kỳ cách nào qua dãy Alps. Phong cách và thời kỳ này cũng đứng trọn trong thế kỷ 16, bắt đầu từ năm 1520 và kết thúc gọn gang vào năm 1580. Hơn nữa, từ giai đoạn kiểu cách này, nước Ý không còn kiếm thêm được những nghệ sĩ bậc thầy mẫu mực, không còn dẫn đầu nghệ thuật châu Âu nữa, và thay vào đó là Pháp. Và khi giai đoạn Baroque bắt đầu vào năm 1590 cho đến giữa thế kỷ 20, Pháp dẫn dắt hầu hết các mặt nghệ thuật và nước Ý hạ xuống thành một bảo tàng cổ điển. Vài người coi trường phái kiểu cách là cây cầu nối giữa Phục Hưng và Baroque bởi trong suốt thời đó, các góc độ và kỹ thuật khác được sử dụng tốt trong phong cách Baroque thì đến từ trào lưu kiểu cách. Thế nên người ta coi trào lưu này không hẳn là một phong cách, mà giống một trạng thái chuyển giao, một khoảng sáu mươi năm đầy màu sắc, và không tuyệt vời được như giai đoạn trước hoặc sau đó. Để kết lại bài viết này, tôi sẽ trình bày cho bạn vài ví dụ tiêu biểu của trào lưu kiểu cách, và nhấn mạnh những biến dạng của nó, từ đó bạn có thể tự thấy những kỳ quặc của thời đại. Venus và Cupid chiếm lấy tiền cảnh bức tranh. Cupid nấp sau mẹ mình. Hãy nhìn kỹ để thấy lưng và mặt sau của cậu bị uốn cong – không hề thực tế – để đáp lại nụ hôn của mẹ cậu, một nụ hôn bất khả thi từ góc độ này. Ngoài sự biến dạng có thể nhìn thấy, không có cách giải thích dứt khoát nào cho câu chuyện tượng trưng này. Thông điệp đã mất đi theo thời gian, hoặc lẩn khuất trong cách dựng hình riêng biệt của Bronzino. Một lần nữa, phải khẳng định tôi sẽ chẳng nhanh tay treo bức tranh này ở phòng khách nếu nó mô tả ai đó trong gia đình mình. Dù chủ thể có đẹp đẽ tao nhã đến đâu thì vẻ đẹp ấy cũng bị bóp méo với đôi vai khổng lồ và chiếc cổ dài ngoẵng. Theo nhiều cách khác nhau, bức tranh này mô tả đẹp và giàu cảm xúc trong cách sử dụng màu sắc, nhưng hãy nhìn con người lao động nghèo khổ dưới sức nặng của chân Chúa. Thân mình và đôi chân của anh ta được kéo dài đến mức chúng ta không biết biểu hiện của anh ta là đang than khóc cho cái chết của Chúa hay là bởi sức nặng quá mức khiến anh ta phải kéo dài thân mình ra để chịu đựng. Thậm chí màu trên thân mình và cánh tay trên dường như ốm yếu xanh xao đến mức ta không chắc anh ta ở trần hay mặc một chiếc áo chẽn bó chặt. Đó là những biến dạng méo mó mà nghệ sĩ theo trường phái kiểu cách giới thiệu như là biểu tượng, hoặc theo một cách nào đó, như một lời tuyên bố. Nếu coi đó như một phong cách, một thời đại đúng nghĩa, ngang hàng với Baroque và Phục Hưng, thì ta phải thừa nhận rằng nó chẳng phải một thời đại thành công. Nếu ta coi nó như một sự chuyển giao, ta sẽ dễ dàng thông cảm hơn, đó là một giai đoạn 40 đến 50 năm mà người nghệ sĩ mất phương hướng. Thật may mắn làm sao, sau đó cuối cùng họ cũng đã tìm được hướng đi đúng. Bài gốc Tác giả Apple Juice từ Minh Hùng dịch Bài đã đăng trên Parmigianino, Madonna with the Long Neck 1534-40 Trường phái kiểu cách là một trào lưu nghệ thuật xuất phát ở Ý khoảng từ 1520 tới 1580, tiếp sau thời kỳ Phục Hưng. Các nghệ sĩ trường phái kiểu cách chủ trương đề cao kỹ thuật, cần sảnh sỏi, cố dụng tâm làm sao cho thanh cao. Họ tôn thờ cái đẹp ưu khoái lạc đến mức kỳ dị, ngôn ngữ bất thường. Nghệ thuật kiểu cách bị xem như sa sút, kém hài hòa và duyên dáng so với thế hệ trước đó.[1] Ban đầu, nghệ thuật kiểu cách cũng có sức hút nhất định, song càng về sau, trường phái này càng sa sút và đi tới thoái trào. Hội họa phương Tây sau đó bước đến thời kỳ Baroque.[1] Tham khảo[sửa sửa mã nguồn] Tư liệu liên quan tới Mannerism tại Wikimedia Commons ^ a b Lịch sử mỹ thuật thế giới của Phạm Thị Chỉnh, trang 118. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2008, giá 48 ngàn VND

trường phái kiểu cách