6- Gắp ba miếng cơm rồi thầm nguyện: 1.Nguyện đoạn nhất thiết ác. 2. Nguyện tu nhất thiết thiện. 3.Thệ độ nhất thiết chúng sanh.
Edit + Beta: Đào Mai Khi trời hừng sáng, Nghi Ninh đợi đến Ngụy Lăng từ trong cung trở về. Trước đó, chuyện Ngụy Lăng đánh bại Ngõa Thứ, bắt giữ phó tướng Ngõa Thứ liền ở trong kinh thành truyền ra trong vòng luẩn quẩn.
Sau đây là nghi thức Cúng Quá Đường trong thiền môn, được xem là nghi thức dùng cơm trong chánh niệm, áp dụng cho tất cả các bữa ăn khác, hành giả cần phải phải thuộc lòng các bài kệ chú để áp dụng trong bữa ăn để giúp mình giữ gìn chánh niệm, không tạp tưởng, mơ màng trong lúc ăn là mục đích chính. Sau khi hành giả vào trong trai đường, nghe thầy
Giới tử đứng trước bàn ăn nghe tiếng khánh chắp tay đồng xá rồi ngồi xuống. Sau nghe ba hồi bảo chúng, đồng tụng bài cúng dường. (Tay trái bắt ấn Tâm sơn, tay mặt kiết ấn Tam Muội để dựa ngang phía trong miệng bát, rồi dâng lên ngang tán đồng tụng bà
Chỉ cách Hà Nội khoảng 90km, Emeralda Resort Ninh Bình với không gian xanh và kiến trúc đậm chất làng quê Bắc Bộ - là địa điểm lý tưởng cho các cuộc hội họp cấp cao, gala dinner, hay tiệc công ty của các quý đối tác trong và ngoài nước vào cuối năm. Hội nghị kết hợp nghỉ dưỡng xu hướng hội nghị cao cấp
Các Bài Pháp Liên Quan: Niệm Phật Tiêu Trừ Nghiệp Chướng Chẳng Thể Nghĩ Bàn. Tín - Nguyện - Hạnh và Cách Thức Niệm Phật. Phá Trừ Nghi Chướng Người Niệm Phật Lúc Lâm Chung. Khi Có Bệnh Ngoài Niệm Phật Ra Đối Với Tất Cả Việc Ở Thế Gian Không Nên Nghĩ Nhớ Hay Tham Luyến.
HmxtHRg. I. DẪN NHẬP Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương; từ rằm tháng 6 đến rằm tháng 9 theo truyền thống Phật giáo Nam phương. An cư có bốn mục đích chính 1. Mùa mưa, cần an cư cấm túc để tránh dẫm đạp côn trùng, khỏi bị cư sĩ than phiền. 2. Việc an cư mùa mưa đã có trước thời Phật, đức Phật chỉ hợp pháp hóa, Ngài thấy thời gian này là thích hợp để chư Tăng ở yên một chỗ tu tập tiến bộ tâm linh. 3. Biểu hiện tinh thần hòa hợp của cộng đồng Tăng lữ trong cùng một trú xứ. Nhiệm vụ các tỳ-kheo sống chung là phải giáo giới lẫn nhau, chỉ điểm và sách tấn nhau, chứ không thể sống như những người câm. 4. Tạo điều kiện cho Phật tử thân cận gần gũi chư Tăng để học hỏi giáo pháp, gọi là thân cận thiện sĩ.[1] Và trong các bộ luật của chính thống giáo như luật Tứ phần của Pháp tạng bộ, Ngũ phần của Hóa địa bộ không thấy nói gì đến chư Tăng an cư có nghi thức cúng “Quá đường”. Luật Tứ phần ghi chép trong mùa an cư[2] Kết cương giới an cư, phân chia phòng xá, phân chia tọa cụ, ngọa cụ, quy định tiền an cư, hậu an cư, chỉ dạy cách sinh hoạt trong một trú xứ. Hoặc phép tắc xuất ngoại trong thời gian an cư nếu có thí chủ mời, hay vì duyên sự quan trọng được phép đi từ 7 ngày đến 40 ngày, nếu quá bị coi là phá hạ. Và đặc biệt an cư bất cứ nơi đâu nơi ấy phải có thí chủ cung cấp phẩm vật, thực phẩm trong ba tháng. Ngày nay chư Tăng Phật giáo Nam phương linh hoạt, tại Thái Lan các tỳ-kheo vẫn đi khất thực, hạn chế ra ngoài; khóa lễ tu tập nghiêm ngặt hơn. Riêng hệ Phật giáo An nam Tông Annamnikāya, tức Phật giáo Bắc tông tại Thái, an cư theo lịch Việt Nam nhưng sinh hoạt không khác gì ngày thường, không “Quá đường” cúng ngọ; 3 tháng an cư ở trong cương giới, ít đi ra ngoài, không đi quá bảy ngày… II. KHÁI QUÁT NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG Chúng ta trở lại Phật giáo Bắc tông ở Việt Nam, an cư ra sao? Căn bản thì an cư sinh hoạt theo luật định nhưng khác biệt là thêm nghi cúng Quá đường trang nghiêm khi thọ trai. Từ “Quá đường 過堂”, xuất xứ trong hai tác phẩm “Thiền lâm tượng khí tiên 禪林象器箋”, là bộ từ điển Phật giáo giải thích về những qui củ, chức vị, lễ tiết, khí cụ… trong thiền môn, do thiền sư Trung Đạo hiệu Vô Trước 1653-1744 dòng Lâm tế Nhật Bản biên soạn, ấn hành năm 1741. Tác phẩm thứ hai là “Thiền lâm bị dụng thanh quy 禪林備用清規”, thiền sư Nhất Hàm biên tập năm 1311 thời nhà Nguyên, nội dung gồm lễ pháp, tụng kinh, tọa thiền, Bách trượng quy cảnh văn, nhật dụng thanh quy…[3]. Từ “Quá đường” được hiểu thông tục là đi qua trai đường dùng cơm. Cả hai tác phẩm này không có chi tiết nghi cúng Quá đường như Phật giáo Bắc tông ở Việt Nam đang hành trì. Vậy nghi thức ấy từ đâu ra? Chúng ta xem sơ lược lại nội dung “Nghi thức cúng Quá đường”. Đầu tiên bài kệ “chánh thân đoan tọa” và câu thần chú, chúng ta tìm thấy trong nhiều tác phẩm Tỳ-ni nhật dụng lục X60, no. 1114, p. 148b1-3, Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu X60, no. 1115, p. 160a10-12 Bài kệ thứ hai, “triển bát” trong Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu p. 159c6, Sắc tu Bách trượng thanh quy chỉ có bài kệ không có câu thần chú… Những bài kệ tiếp theo Quán không bát quán bát không, Quán thịnh mãn bát quán bát đầy…, hầu như trích dẫn từ Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu. Đặc biệt khi bưng bát cúng dường dẫn từ nguồn “ “Tay trái co ngón giữa và ngón áp, còn ba ngón dựng thẳng để bát lên; tay mặt kiết ấn cam lồ, ngón cái bên tay phải đè lên ngón áp để dựa ngang phía trong miệng bát, rồi đồng xướng bài cúng dường Cúng dường Thanh tịnh Pháp thân Tì-lô-giá-na Phật, Viên Mãn Báo Thân Lô-xá-na Phật, Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích-ca Mâu-ni Phật, … Ma-ha bát-nhã ba-la-mật. Tam đức lục vị, cúng Phật cập Tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn. Dâng cơm lên trán và bắt ấn cúng dường, cũng được gọi là “cử án tề mi”, tức là đưa lên ngang chân mày để biểu tỏ lòng tôn kính ba ngôi Tam Bảo…” Bài cúng dường trên, từ đoạn “Thanh tịnh Pháp thân… đến Ma-ha bát-nhã ba-la-mật”, trong Thiền lâm tượng khí tiên quyển 17 B19, no. 103, p. 524b1 giải thích đây là danh hiệu Phật lễ lạy công đức khó nghĩ bàn. Từ đoạn “Tam đức lục vị” đến “phổ đồng cúng dường”, nằm ở mục khác trong Thiền lâm tượng khí tiên p. 527a17, là bài kệ đọc chú nguyện lúc dùng cháo. Đoạn “Nhược phạn thực thời… pháp hỷ sung mãn”, trong kinh Hoa nghiêm T10, no. 279, p. 71c17, Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu hương nhũ ký quyển 2 X60, no. 1116, p. 189a18… Như vậy toàn văn bài cúng dường là sự tổng hợp và nghi thức kết ấn dâng bát, trong sử liệu Hán truyền hiện còn chúng ta không thấy nói. Nhiều nhà Phật học Việt Nam cho rằng nghi thức cúng “Quá đường” bắt nguồn từ Trung Quốc, nhưng không ai để ý nội dung tại sao có sự sai khác như vậy? III. NGHI THỨC THỜI BÁCH TRƯỢNG Ngược dòng lịch sử, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập Trung Quốc, Tăng nhân vẫn đi khất thực nhưng đến thời Đông Tấn An đế năm 405, bắt đầu các nhà sư làm ruộng, bỏ khất thực, với nhiều lý do Thứ nhất, việc khất thực không hợp với một xã hội rộng lớn và xem trọng lao động. Thứ hai Tăng đoàn phát triển, nhiều tu viện ở nơi xa xôi hẻo lánh khó dựa vào việc khất thực, đồng thời từ thời Nam Bắc triều, hoàng tộc và quý tộc đã bố thí cho Tăng chúng ruộng đất, không trực tiếp cúng dường thức ăn, cho nên Tăng chúng tổ chức phương thức sản xuất tự cung tự cấp. Lý do đó, đến đời Đường, thiền sư Mã Tổ kiến tạo tùng lâm, thiền sư Bách Trượng chế tác thanh quy, chính thức mở ra một hình thức sinh hoạt mới trong Tăng đoàn Trung Quốc. Thời Bách Trượng 720-814, nghi thọ trai như sau[4] “Khi nghe bản đánh không được vào Trai đường liền, mà nên sai hành giả đi lấy bát… vào trai đường ngồi xuống ghế phải xá chào người bên cạnh, chớ để y ca-sa vướng vào mép ghế… Nghe tiếng kiền-trùy tưởng niệm “Phật sinh Ca-tì-la… nhập diệt Câu-hi-la”. Chuyển bát đọc “Ứng lượng khí bát của Phật con nay mở ra… tam luân không tịch.” Khi nhận thức ăn, tưởng niệm Khi nhận thức ăn, Nguyện cho chúng sanh, Ăn bằng thiền duyệt, Tràn đầy an vui. Trước khi ăn quán năm điều ngũ quán 1. Xem cơm mình nhiều ít xứng của người đem lại. 2. Xét đức hạnh mình đủ thiếu nhận cúng dường. 3. Ngăn lỗi lầm của tâm tham khi ăn. 4. Thức ăn này là thuốc hay để chữa thân gầy. 5. Vì thành đạo nghiệp nên nhận thức ăn nầy…” Chúng tôi toát yếu ý chính như thế. Hiện nay, nghi thức cúng “Quá đường” của Phật giáo Bắc tông cả Việt Nam và Trung Quốc hay Đài Loan gần như nhau, chỉ khác là ở Việt Nam có nét đặc thù là lúc đọc bài cúng dường kết ấn bưng bát cơm dâng lên. Vậy ai là tác giả cải biên hiệu chỉnh nó? IV. THIỀN SƯ NGUYÊN BIỂU Theo sử gia Lê Mạnh Thát chứng minh, chính thiền sư Nguyên Biểu biên soạn nghi thức cúng “Quá đường”. Khi thiền sư Nguyên Biểu soạn Thọ giới nghi quỹ, ngay quyển 1 sau phần Yết-ma, ông đã chọn Tịnh độ sám nguyện nghi của Tổ sư Từ Vân 964-1032 để đưa vào sám hối. Đặc biệt giữa những tờ 21b1-22b8, có chép thêm phần Cúng dường pháp. Đây là nghi thức cúng dường mà về sau trở thành nghi thức Quá đường của chúng Tăng ở cả ba miền Trung Nam Bắc trong mùa an cư với một vài cải biên cũng như Nghi thức cúng ngọ tại các chùa trong cả nước.[5] Thiền sư Nguyên Biểu 1836-1906 sinh ra dưới triều vua Minh Mạng, thọ sa-di năm 1852, thọ giới cụ túc năm 1855. Ông là người có công chấn hưng Luật học và tổ chức giới đàn tại miền Bắc trong giai đoạn này Phía Nam, từ Quảng Bình trở vào, do Luật sư Pháp Chuyên Diệu Nghiêm [1726-1798] chấn hưng. Thiền sư viết Thọ giới nghi quỹ và Chư kinh nhật tụng tập yếu để sử dụng. Khi viết Thọ giới nghi quỹ, thiền sư đã dựa vào hai bộ Yết-ma chính, là San bổ tùy cơ Yết-ma huyền ti sao của Đạo Tuyên và Đức Thành và Yết-ma chỉ nam của Hàm Tế – Chiêu Minh. Còn Chư kinh nhật tụng tập yếu, ông dựa vào bản Chư kinh nhật tụng lưu hành phổ biến ở Trung Quốc. Tóm lại, sau khi Bách Trượng thanh quy ra đời, các tác phẩm Tỳ-ni nhật dụng thiết yếu Độc Thể [1601-1679, cuối đời Minh đầu đời Thanh] soạn, Tỳ-ni nhật dụng lục Tánh Kỳ soạn thời Minh tất cả đều y cứ vào thanh quy ấy mà phát triển thêm; kể cả Thiền lâm tượng khí tiên và Thiền lâm bị dụng thanh quy cũng sưu tập từ Bách Trượng thanh quy. Cho nên nghi thức cúng “Quá đường” của thiền sư Nguyên Biểu có chút giống Phật giáo Trung Quốc, chỉ cải biên thêm nghi thức kết ấn dâng cơm cúng Phật. V. KẾT LUẬN Nghi thức cúng “Quá đường” là một nét đẹp trong thiền môn của Phật giáo Bắc tông; tuy nhiên truyền thống này ảnh hưởng từ “Bách Trượng thanh quy”. Thiền sư Bách Trượng đã xây dựng một hệ thống riêng biệt cho giới luật thiền tông, hệ Phật giáo Bắc tông thừa hưởng cái “cốt tủy” của nó suốt một thời gian khá dái, song dần dà Tăng chúng tôn vinh vẻ “hình thức” hơn là việc tu tập theo giới luật Thanh văn của Phật chế. Do vậy mà ngày nay, nhiều ngôi chùa Bắc truyền trọng thị nghi thức cúng “Quá đường”, bắt buộc chư Tăng trong ba tháng an cư phải luôn có mặt, sau giờ cúng “Quá đường” muốn đi đâu tùy ý. Việc an cư cấm túc, tu tập thiền tư bị xem nhẹ và tổ chức giảng dạy cho Phật tử gọi là “thân cận thiện sĩ” cũng trắng hoàn toàn, chỉ giữ truyền thống hằng đêm có Phật tử vân tập về chùa tụng niệm nhưng lời kinh Phật nói gì thì như cảnh trong sương, khi mờ khi tỏ. Trong lịch sử, ở Trung Quốc giới luật Thanh văn từng bị coi thường, mãi đến thế kỷ thứ XVI, Vân Thê và Đức Thanh mới chỉnh đốn lại giới luật Thanh văn. Giống như tại Việt Nam, trước thời Pháp Chuyên và Nguyên Biểu, giới luật Phật giáo chỉ lấy Bồ-đề tâm giới hay Bồ-tát tâm tức giới thập thiện làm chính. Nguyện đem công đức này hồi hướng đến sự thanh tịnh cho Tăng-già, cho tứ chúng đồng tu trong mùa an cư Phật lịch 2567 thành tựu viên mãn. Tâm Nhãn [1] Tuệ Sỹ- Yết-ma yếu chỉ, ch. vi. An cư và tự tứ, tr. 284. [2] Tứ phần p. 830b7 – 835c5. [3] Phật quang đại từ điển p. 6466 & 禪林象器箋 [4] Sắc tu bách trượng thanh quy 勅修百丈清規 卷6, T48, no. 2025, p. 1144c18 & 漫談佛教的齋飯 [5] Lê Mạnh Thát – Vị trí của thiền sư Nguyên Biểu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam thế kỷ XIX và sau đó file word do tác giả cung cấp.
Nghi thức này là để thí thực cho các giới cô hồn, được sử dụng hàng ngày tại các chùa trong buổi công phu chiều. Trên bàn thờ cô hồn có cháo, gạo, muối và nước trong. Tại tư gia vào chiều ngày rằm tháng bảy, ta cũng có thể tổ chức cúng cô hồn và sử dụng nghi thức này. Trong nghi thức có bài kệ kinh Hoa Nghiêm rất nổi tiếng “Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” và rất nhiều bài chân ngôn. Nghi thức này có mầu sắc Mật Tông. Cần có nhiều định lực và tụng không vấp váp thì sự trì tụng và cúng dường mới thành công. Nên tụng thong thả để đừng vấp Niệm Bụt mỗi danh hiệu ba lầnNam mô Bụt và Bồ Tát trên hội Hoa Nghiêm CNam mô Bồ Tát Diện Nhiên Vương. C2. Kệ Khai ThịLửa dữ bừng bừng cháy bốn bênCô hồn nóng bức khổ triền miênCô hồn nếu muốn sinh Tịnh ĐộHãy lắng nghe đây kệ Bụt truyền“Nếu ai muốn thấy và muốn hiểuChư Bụt có mặt trong ba đờiNgười ấy phải quán chiếu pháp giớiTất cả đều do tâm mà thôi.” C3. Trì Chú mỗi chú ba lầnChân Ngôn Phá Địa NgụcÁn, dà ra đế da ta bà ha. CChân Ngôn Triệu ThỉnhNam mô bộ bộ đế rị dà rị đa ri đát tha nga đa da. CChân Ngôn Mở Oan KếtÁn, tam đà ra dà đà ta bà ha.C4. Niệm Danh HiệuNam mô Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm CNam mô Bụt thường trú mười phương CNam mô Pháp thường trú mười phương CNam mô Tăng thường trú mười phương CNam mô đức Bụt Thích Ca Mâu Ni CNam mô đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm CNam mô đức Bồ Tát Cứu Khổ Minh Dương Địa Tạng Vương CNam mô đức Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà. C5. Quay Về Nương TựaCon về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời tỉnh thức. CĐã về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn chuyển về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. CVề nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người,thể nhận được giác tính, sớm mở lòng Bồ nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người,nắm vững các pháp môn, cùng lên đường chuyển nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người,xây dựng nên bốn chúng, nhiếp hóa được muôn loài. CC6. Bốn Lời NguyệnPhật tử đã tạo ra nghiệp xấuCũng vì tâm niệm tham sân siDo thân, miệng, ý phát sinh raTất cả Phật tử đều sám hối. CMọi loài đã tạo ra nghiệp xấuCũng vì tâm niệm tham sân siDo thân, miệng, ý phát sinh raTất cả mọi loài đều sám hối. CCô hồn đã tạo ra nghiệp xấuCũng vì tâm niệm tham sân siDo thân, miệng, ý phát sinh raTất cả cô hồn đều sám hối. CChúng sanh vô biên thề nguyện độPhiền não vô tận thề nguyện đoạnPháp môn vô lượng thề nguyện họcPhật đạo vô thượng thề nguyện thành. CTự tánh chúng sanh thề nguyện độTự tánh phiền não thề nguyện đoạnTự tánh pháp môn thề nguyện họcTự tánh Phật đạo thề nguyện thành. CC7. Trì Chú mỗi chú ba lầnChân Ngôn Diệt Định NghiệpÁn, bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha. CChân Ngôn Diệt Nghiệp ChướngÁn, a lỗ lặc kế ta bà ha. CChân Ngôn Mở Rộng Yết HầuÁn, bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát tha nga đa da. CChân Ngôn Diệt Tam Muội Gia GiớiÁn, tam muội da tát đỏa phạn.CChân Ngôn Biến ThựcNam mô tát phạ đát tha nga đa phạ rô chỉ tam bạt ra, tam bạt ra hồng. CChân Ngôn Biến ThủyNam mô tô rô bà gia, đá tha nga đá gia, đát điệt tha, án, tô rô, tô rô, bạt ra tô rô bạt ra tô rô, ta bà ha. CChân Ngôn Nhất Tự Thủy LuânÁn noan noan noan noan noan.CChân Ngôn Biển SữaNam mô tam mãn đa một đà nẫm, án noan. CC8. Cúng DườngNam mô Đa Bảo Như LaiNam mô Bảo Thắng Như LaiNam mô Diệu Sắc Thân Như LaiNam mô Quảng Bác Thân Như LaiNam mô Ly Bố Úy Như LaiNam mô Cam Lộ Vương Như LaiNam mô A Di Đà Như Lai. CThần chú gia trì thức ăn tịnhCúng khắp mười phương chúng Phật tửNguyện đều no đủ bỏ xan thamMau thoát u minh sinh Tịnh ĐộQuy y Tam Bảo phát Bồ ĐềRồi sẽ đạt thành đạo vô thượngCông đức đi về cõi vị laiTất cả Phật tử cùng tiếp nhận. CThần chú gia trì thức ăn tịnhCúng khắp mười phương cả mọi loàiNguyện đều no đủ bỏ xan thamMau thoát u minh sinh Tịnh ĐộQuy y Tam Bảo phát Bồ ĐềRồi sẽ đạt thành đạo vô thượngCông đức đi về cõi vị laiTất cả mọi loài cùng tiếp nhận.CThần chú gia trì thức ăn tịnhCúng khắp mười phương chúng cô hồnNguyện đều no đủ bỏ xan thamMau thoát u minh sinh Tịnh ĐộQuy y Tam Bảo phát Bồ ĐềRồi sẽ đạt thành đạo vô thượngCông đức đi về cõi vị laiTất cả cô hồn cùng tiếp nhận. CNày các vị Phật tửTôi nay xin dâng cúngThức ăn biến mười phươngPhật tử đều tiếp nhậnNguyện đem công đức nàyHồi hướng về tất cảPhật tử và chúng tôiĐều cùng thành Phật đạo. CNày tất cả mọi loàiTôi nay xin dâng cúngThức ăn biến mười phươngMọi loài đều tiếp nhậnNguyện đem công đức nàyHồi hướng về tất cảMọi loài và chúng tôiĐều cùng thành Phật đạo. CNày các chúng cô hồnTôi nay xin dâng cúngThức ăn biến mười phươngCô hồn đều tiếp nhậnNguyện đem công đức nàyHồi hướng về tất cảCô hồn và chúng tôiĐều cùng thành Phật đạo. CCChân Ngôn Thí Vô Già ThựcÁn mục lực lăng ta bà ha. CChân Ngôn Phổ Cúng DườngÁn nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc CC9. Kệ Cúng DườngPhụng hiến cam lồ vịPhân lượng như thái hưXin mọi loài đạt nguyệnVề nương bóng Đại Từ. C10. Hồi HướngTrì tụng kinh thâm diệuTạo công đức vô biênĐệ tử xin hồi hướngCho chúng sinh mọi miền. CPháp môn xin nguyện họcÂn nghĩa xin nguyện đềnPhiền não xin nguyện đoạnQuả Bụt xin chứng nên. CNguyện sinh về Tịnh ĐộSen nở thấy vô sinhChư Bụt và Bồ TátLà những bạn đồng hành. CNguyện dứt hết phiền nãoCho trí tuệ phát sinhCho tội chướng tiêu tánQuả giác ngộ viên thành. CCC
Cúng thí thực là hướng tới các vong linh ngạ quỷ khổ đói, chan rải tâm từ bi, thực hành bố thí và đem công đức này để cầu bình an không chỉ cho bản thân, cho gia đình mỗi người, mà là cho hết thảy pháp giới chúng sinh. Các bạn xem lại bài Hướng dẫn cách chuẩn bị mâm cỗ cúng Rằm tháng 7, cúng cô hồn Trầm Tuệ đã chia sẻ để bày trí mâm cúng thanh tịnh và đầy đủ trước khi bắt đầu tiến hành cúng thí thực theo nghi thức Thiền môn được các quý Thầy trong Thiền phái Trúc Lâm biên soạn để tụng đọc trong mùa Vu Lan.Hồi hướng Tam Bảo cho các hương linh, vong linh, cô hồn để họ thọ hưởng được các vật cúng thí và sớm được siêu thoát về cảnh lành Ảnh minh họa - Nguồn InternetNGHI THỨC CÚNG THÍ THỰCĐánh 3 hồi khánhNGUYỆN HƯƠNG Chi lễ nguyệnHương giới, hương định, cùng hương giải thoát, giải thoát tri mây sáng rỡ trùm pháp giới,Cúng dường Tam Bảo khắp mười mô Bồ-tát Hương Cúng Dường. Niệm 3 lần Hôm nay là ngày..... tại..... tín chủ..... phát tâm sắm chút ít phẩm vật Hương, hoa, cơm, cháo, bánh, nước….. cúng thí cho các hương linh, vong linh, cô hồn. Ngưỡng nguyện Đức Địa Tạng từ tôn tiếp độ cho các chư vị hương linh, vong linh, cô hồn được về đây thính pháp nghe kinh và thọ vật thực, cùng quy hướng thọ tam quy, nương nhờ thần lực Tam bảo hộ trì tiếp độ cho các hương linh, vong linh và các cô hồn được sớm siêu sinh thoát khỏi vòng trầm luân mê muội, thác sanh về nơi cõi an vui, gặp Chánh pháp tu hành chóng giác ngộ giải mong Tam bảo thường ở khắp 10 phương cùng chư Long Thần hộ pháp từ bi thương xót đồng đến chứng minh và gia hộ. 3 lần TÁN PHÁPPháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,Trăm ngàn muôn kiếp khó được con nghe thấy vâng gìn giữ,Nguyện hiểu nghĩa chân đức Thế Tôn. Quy kính Phật Bồ-tát trên hội Bát Nhã. 3 lầnTÂM KINH TRÍ TUỆ CỨU CÁNH RỘNG LỚNKhi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát Nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Này Xá-lợi-phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Này Xá-lợi-phất! Tướng không của các pháp, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên trong tướng “không”, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo Bát Nhã Ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát Nhã Ba-la-mật-đa, được đạo quả Vô Thượng Chánh đẳng Chánh biết, Bát Nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chân thật không dối. Vì vậy nói chú Bát Nhã Ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng "Yết đế, yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha". Niệm 3 lầnTỤNG1- Này các vị hương linh Phật tửTôi nay cúng thí cho các vịThức ăn này biến khắp mười phươngCác vị hương linh Phật tử cùng chung đem công đức thí thực nàyHướng về khắp tất cảĐệ tử cùng các hương linhĐều trọn thành Phật Này các vị vong linh hữu tình Tôi nay cúng thí cho các vịThức ăn này biến khắp mười phươngCác vị vong linh hữu tình cùng chung đem công đức thí thực nàyHướng về khắp tất cảĐệ tử cùng các vong linhĐều trọn thành Phật Này các vị cô hồnTôi nay cúng thí cho các vịThức ăn này biến khắp mười phươngCác vị cô hồn cùng chung đem công đức thí thực nàyHướng về khắp tất cảĐệ tử cùng các cô hồnĐều trọn thành Phật đạo.* Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. 3 lần* Nam mô tô rô bà da đát tha nga đa da, đát điệc tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. 3 lần* Án mục lực lăng ta bà ha. 3 lần* Án nga nga nẵng, tam bà pha phiệt nhựt ra hồng. 3 lầnSÁM HỐICác vị hương linh Phật tử Vốn tạo bao vọng do vô thỉ tham sân si Từ thân miệng ý phát sinh nay thảy đều xin sám mô Bồ-tát Cầu Sám Hối. 3 lầnCác vị vong linh hữu tìnhVốn tạo bao vọng do vô thỉ tham sân si Từ thân miệng ý phát sinh nay thảy đều xin sám mô Bồ-tát Cầu Sám Hối. 3 lầnCác vị cô hồnVốn tạo bao vọng do vô thỉ tham sân si Từ thân miệng ý phát sinh nay thảy đều xin sám mô Bồ-tát Cầu Sám Hối. 3 lần*- Các vị hương linh Phật tử xin quy y Các vị hương linh Phật tử xin quy y Các vị hương linh Phật tử xin quy y Tăng.*- Các vị vong linh hữu tình xin quy y Các vị vong linh hữu tình xin quy y Các vị vong linh hữu tình xin quy y Tăng.*- Các vị cô hồn xin quy y Các vị cô hồn xin quy y Các vị cô hồn xin quy y Tăng.*- Các vị hương linh Phật tử quy y Phật, đấng phước trí vẹn Các vị hương linh Phật tử quy y Pháp, đạo thoát ly tham Các vị hương linh Phật tử quy y Tăng, bậc tu hành giải thoát.*- Các vị vong linh hữu tình quy y Phật, đấng phước trí vẹn Các vị vong linh hữu tình quy y Pháp, đạo thoát ly tham Các vị vong linh hữu tình quy y Tăng, bậc tu hành giải thoát.*- Các vị cô hồn hồn quy y Phật, đấng phước trí vẹn Các vị cô hồn quy y Pháp, đạo thoát ly tham Các vị cô hồn quy y Tăng, bậc tu hành giải thoát.*- Các vị hương linh Phật tử, đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Các vị hương linh Phật tử, đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà Các vị hương linh Phật tử, đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y thầy tà, bạn dữ.*- Các vị vong linh hữu tình, đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Các vị vong linh hữu tình, đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà Các vị vong linh hữu tình, đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y thầy tà, bạn dữ.*- Các vị cô hồn, đã quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Các vị cô hồn, đã quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà Các vị cô hồn, đã quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y thầy tà, bạn dữ.*- Các vị hương linh Phật tử quy y Phật rồi khỏi đọa địa Các vị hương linh Phật tử quy y Pháp rồi khỏi đọa ngạ Các vị hương linh Phật tử quy y Tăng rồi khỏi đọa súc sinh.*- Các vị vong linh hữu tình quy y Phật rồi khỏi đọa địa Các vị vong linh hữu tình quy y Pháp rồi khỏi đọa ngạ Các vị vong linh hữu tình quy y Tăng rồi khỏi đọa súc sinh.*- Các vị cô hồn quy y Phật rồi khỏi đọa địa Các vị cô hồn quy y Pháp rồi khỏi đọa ngạ Các vị cô hồn quy y Tăng rồi khỏi đọa súc HOẰNG THỆ NGUYỆNChúng sanh vô biên thệ nguyện độPhiền não vô tận thệ nguyện đoạn Pháp môn vô lượng thệ nguyện đạo vô thượng thệ nguyện tánh chúng sanh thệ nguyện độTự tánh phiền não thệ nguyện đoạn Tự tánh pháp môn thệ nguyện tánh Phật đạo thệ nguyện HƯỚNGThí thực công đức khôn tính kểThắng phước vô biên đồng hướng vềNguyện khắp pháp giới các chúng sanhThảy đểu thể nhập vô sinh tiêu ba chướng sạch phiền nãoNguyện được trí tuệ thật sáng ngờiNguyện cả tội chướng thảy tiêu trừĐời đời thường hành Bồ-tát đem công đức tu hành nàyChan rải mười phương khắp tất cảHết thảy chúng con cùng các loàiĐồng được lên ngôi Vô Thượng NGUYỆNNam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu cho các Hương linh, các vong linh cùng các chúng cô hồn, nương từ lực Tam bảo được phát tâm tỉnh giác, lìa chỗ tối tăm, khởi niệm từ bi, xa rời đường khổ. Tin sâu Tam Bảo, sanh cõi Phật an cho mưa pháp gội nhuần mọi loài chung hưởng tứ chúng đồng tu, một niệm không sanh an nhiên giải nguyện dòng giống Việt Nam khác thể tâm đồng, quay về nguồn xưa phát minh bản địa, mong cho ba nghiệp chóng tiêu chân tâm tỏ rõ, quốc độ thanh bình, đạo đời yên ổn, pháp giới chúng sanh trọn thành Phật nguyện Phước ban tất cả đức độ quần sinh, Phật pháp thịnh hưng tam đồ dứt sạch. Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu TỰ QUYTự quy y Phật, nguyện cho chúng sanh, hiểu thấu đại đạo, phát tâm vô thượng. 1 lạyTự quy y Pháp, nguyện cho chúng sanh, thâm nhập tam tạng, trí huệ như biển. 1 lạyTự quy y Tăng, nguyện cho chúng sanh, quản lý đại chúng, tất cả không ngại. 1 lạyTham khảoÝ nghĩa mùa an cư kiết hạÝ nghĩa cúng dường trai tăngCông đức cúng dường hương thơmBài văn tụng lễ Phóng sinh đơn giản tại nhàÝ nghĩa ngày lễ Vu Lan và bài tụng lễ Vu Lan 2022Có nên rút tỉa chân hương thường xuyên? Hướng dẫn bao sái bàn thờTRẦM TUỆ LAN TỎA NIỀM TIN - SẺ CHIA CHÂN THẬTThương Hiệu Bán Trầm Hương Đốt Vi Sinh Uy Tín Việt Nam
Vị lớn nhất đánh ba hồi kiền-trùy tập chúng A/ CÚNG DƯỜNG CỬ BÁT CÚNG DƯỜNG Cúng dường Phật Pháp Thân Thanh Tịnh Tỳ-lô-giá-na, Phật Báo Thân Viên Mãn Lô-xá-na, Phật Hóa Thân ngàn muôn ức Thích Ca Mâu Ni, Vị lai giáng sanh Phật Di Lặc Tôn, Thế giới Cực Lạc Phật A Di Đà, Mười phương ba đời tất cả chư Phật, Bồ-tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi, Bồ-tát Đại Hạnh Phổ Hiền, Bồ-tát Đại Bi Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Chư Bồ-tát lớn thường hộ pháp. Đại Bát-nhã cứu cánh, ba đức, sáu vị, cúng Phật và Tăng, thảy đều cúng dường, chúng hữu tình khắp pháp giới. Nếu khi thọ thực, lấy vui thiền định và pháp hỷ đầy đủ làm thức ăn. XUẤT SANH Vị ni lớn làm pháp xuất sanh. Toàn chúng đồng tụng Pháp lực bất tư nghì, Từ bi không chướng ngại, Bảy hạt bủa mười phương, Cho cả châu sa giới. Án độ lợi ích tóa ha 3 lần Nam mô tát phạ đát tha, nga da phạ lồ chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. 3 lần Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án, tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. 3 lần Chúng quỷ thần các người, Nay tôi cho đồ cúng, Đồ này khắp tất cả, Quỷ thần cùng hưởng chung. Án mục lực lăng tóa ha 3 lần THỊ GIẢ TỐNG THỰC Chim Đại Bàng cánh vàng, Chúng quỷ thần rừng núi, Mẹ con quỷ La Sát, Cơm bảy hạt no đầy. Án, mục đế tóa ha 7 lần CHỦ LỄ XƯỚNG TĂNG BẠT Phật răn Chúng Tăng khi ăn phải nhớ năm pháp quán, tán tâm nói chuyện của tín thí khó tiêu. Đại chúng khi nghe tiếng khánh, mỗi người phải nhất tâm chánh niệm. Nam-mô Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Đại chúng đồng niệm B/ THỌ TRAI Toàn chúng hai tay nâng bát ngang trán, lắng nghe chủ lễ xướng đọc Tay bưng bát cơm, Nguyện cho chúng sanh, Pháp khí thành tựu, Nhận trời, người cúng. Án chỉ rị chỉ rị, phạ nhật ra hồng phấn tra. 3 lần TAM ĐỀ Thọ nhận muỗng cơm thứ nhất Nguyện dứt tất cả các điều ác. Thọ nhận muỗng cơm thứ hai Nguyện làm tất cả các điều lành. Thọ nhận muỗng cơm thứ ba Thệ độ tất cả chúng sanh. NĂM PHÁP QUÁN Thí chủ vất vả nhọc nhằn lắm mới có được bát cơm manh áo, lại đem hết lòng thành kính dâng cúng cho chư Tăng Ni, chỉ mong chư Tăng Ni an ổn tu hành. Đức hạnh của chúng con so với công lao khó nhọc và tấm lòng thành của thí chủ thật không thấm vào đâu. Nhưng chúng con nguyện cố gắng tinh tấn tu hành, giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh, không để tham sân si làm chủ mình. Chúng con sẽ không vì thức ăn ngon mà tham đắm, không vì thức ăn dở mà giận tức. Chỉ vì một lòng thành tựu đạo nghiệp mới thọ nhận thức ăn này. Ăn chỉ để thân thể khỏe mạnh đặng tinh tấn hành đạo, chừng nào thành tựu đạo nghiệp mới thôi. Cầu nguyện thí chủ phước đức tăng trưởng, lòng tin kiên cố. Nam mô Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Kính thỉnh đại chúng nhiếp tâm thọ trai. C/ KIẾT TRAI Kính thỉnh đại chúng kiết trai TỤNG TÂM KINH TÂM KINH TRÍ TUỆ CỨU CÁNH RỘNG LỚN Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách. Này Xá-lợi-phất ! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như thế. Này Xá-lợi-phất ! Tướng không của các pháp, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Cho nên, trong tướng không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ được, nên Bồ-tát y theo Bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết-bàn. Chư Phật trong ba đời cũng nương Bát-nhã Ba-la-mật-đa được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết, Bát-nhã Ba-la-mật-đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thảy khổ, chơn thật không dối. Vì vậy nói chú Bát-nhã Ba-la-mật-đa, liền nói chú rằng “Yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha”. HỒI HƯỚNG Thọ trai đã xong, Nguyện cho chúng sanh, Việc làm đều được, Đầy đủ Phật pháp. PHỤC NGUYỆN Cơm ngày ba bữa, thường nhớ công khó khổ của kẻ nông phu. Thân mặc ba y, hằng xét nghĩ sự nhọc nhằn của người may dệt. Thuốc thang, giường chõng bởi do sự nhín ăn, bớt mặc của đàn-na. Học đạo tiến tu nhờ lòng từ dạy răn của Thầy Tổ. Nguyện cho thí chủ Ruộng phước thêm nhiều, đạo tâm thêm lớn, cùng tất cả chúng sanh khắp trong pháp giới, kẻ mất người còn đồng thành Phật đạo. Nam mô Phật Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Toàn chúng đồng niệm NGUYỆN KIẾT TƯỜNG Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả thời gian an lành cả, Nguyện chư Thượng Sư thường nhiếp thọ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả thời gian an lành cả, Nguyện trên Tam Bảo thường nhiếp thọ. Nguyện ngày an lành, đêm an lành, Đêm ngày sáu thời đều an lành, Tất cả thời gian an lành cả, Nguyện chư Hộ pháp thường ủng hộ. Nam-mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ-tát Ma-ha-tát 3 lần Hoàn mãn Tip You can use left, right, A and D keyboard keys to browse between chapters.
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG Đại chúng đứng hai hàng, nghe tiếng chuông, xá 1 xá, ngồi vào ghế, nhiếp tâm đọc thầm những pháp ngữ sau đây QUÁN NIỆM NGỒI THẲNG Thân ngồi ngay thẳng Cầu cho chúng sanh Ngồi tọa Bồ Đề Tâm không đắng nhiễm. Án phạ tất ba ra a ni phát ra ni ấp đa da tá ha. GIỞ BÁT Bình bát của Như Lai Con nay được mở bày Cúng dường cho tất cả Xin nguyên được an vui. Án tư ma ni tá ha. BÁT KHÔNG Nếu thấy bát không Cầu cho chúng sanh Hoàn toàn trong sạch Không có buồn lo. Đổ nước tráng bát, lau khô, để cơm vào MẶC NIỆM BÁT ĐẦY CƠM Khi thấy bát đầy Cầu cho chúng sanh Vui vẻ làm nên Tất cả việc lành. Tay trái bưng bát cơm, tay mặt bắt ấn, dơ ngang trán, đồng tụng bài cúng dường CÚNG DƯỜNG Cúng dường Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật Viên Mãn Báo Thân Lô Xá Na Phật. Thiên Bá Ức Hóa Thân Thích Ca Mâu Ni Phật. Đương Lai Hạ Sanh Di Lạc Tôn Phật. Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật. Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật. Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát. Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật. Thức ăn tinh khiết, cúng dường chư Phật, chư, Hiền Thánh Tăng, pháp giới hữu tình, thảy đều cúng dường. Khi đang dùng cơm, cầu cho chúng sanh, hành “Thiền Duyệt Thực”, đầy đủ an vui. 1 tiếng chuông Để chén chung trong lòng bàn tay trái, tay phải gấp 7 hạt cơm để vào chung, Thầy cả niệm XUẤT SANH Pháp lực khó nghĩ bàn Từ Bi không chướng ngại Cơm ít hóa thành nhiều Thí khắp mười phương cõi Đồng không, quỉ mẹ, con Đại bàng kim sí điểu Tất cả đều no đủ, Án độ lợi ích ta ha. 3 lần, 1 tiếng chuông Thị giả bưng chung, đi ra nơi cúng và đọc TỐNG THỰC Tất cả chúng quỉ thần Tôi nay nguyện cúng dường Cơm này biến khắp mười phương Quỉ thần no đủ, nhờ nương phép mầu. Án mục lục lăng tá ha. 7 lần, 1 tiếng chuông Thầy cả xướng TĂNG BẠT Phật dạy tỳ kheo Giữ tròn năm quán Khi ăn tâm loạn Tín thí khó tiêu Đại chúng thảy đều Nhất tâm niệm Phật. 1 tiếng chuông Đại chúng đồng niệm Nam Mô A Di Đà Phật. 1 tiếng chuông Đại chúng tiếp Tam Bạt Ra dà đa. 7 lần, 1 tiếng chuông Tay bưng bát giơ ngang tráng, niệm thầm Tay bưng bình bát Cầu cho chúng sanh Trọn nên Pháp trí Thọ thiên nhơn cúng. Án chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra. 3 lần, 1 tiếng chuông Để chén xuống, ăn 3 muỗng hay đũa, mỗi đũa niệm như sau BA NGUYỆN muỗng thứ nhứt Nguyện dứt tất cả điều ác. muỗng thứ hai Nguyện làm tất cả điều lành. muỗng thứ ba Nguyện độ tất cả chúng sanh. 1 tiếng chuông Đôi đũa gác ngang bát cơm, hay muỗng cắm giữa bình bát, niệm thầm NĂM QUÁN một là So lường công đức tu hành Người kia mang đến cơm canh cúng dàng. hai là Xét xem đức hạnh của mình Thọ dùng nhiều ít, cân phân rõ ràng. ba là Ngăn ngừa tội lỗi đã làm Sân, si là gốc, tham lam đứng đầu. bốn là Uống ăn là thuốc nhiệm mầu Chữa lành thân bịnh ốm o gầy mòn. năm là Quyết chắc Đạo nghiệp vuông tròn Cơm này thọ dụng, không còn quả, nhân. Để bát xuống, xá 1 xá rồi dùng cơm. Dùng xong, nghe 1 tiếng chuông, đại chúng đổ nước vào tráng bát, và đọc CHÚ TRÁNG BÁT Nước dùng tráng bát Cam lồ thơm ngát Thí các quỉ thần Đều được no đủ Án ma hưu ra tất tá ha. CHÚ XĨA RĂNG Khi đang xĩa răng Cầu cho chúng sanh Thân tâm thanh tịnh Dứt hết phiền não. Án, a mộ dà di ma lê, nhĩ phạ ca ra, tăng du đà nể, bát đầu ma câu ma ra, nhĩ phạ ca ra tăng thâu đà da, đà ra dà ra, tố di ma lệ, ta phạ ha. CHÚ UỐNG NƯỚC Phật xem một bát nước Có hơn tám muôn trùng Nếu uống không niệm chú Như ăn thịt chúng sanh Án phạ tất ba ra ma ni tá ha. Uống nước xong, 1 tiếng chuông, đồng tụng CHÚ KIẾT TRAI Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ chủ lệ chuẩn để, ta bà ha. 3 lần, 1 tiếng chuông Người phát tâm cúng dường Lợi ích không thể lường Nay, vui mừng bố thí Sau, của báu vô phương. Dùng cơm đã xong Cầu cho chúng sanh Trọn nhờ Pháp Phật Thể nhập chân như. 1 tiếng chuông, chỉ Thầy cả phục nguyện PHỤC NGUYỆN Chiếc áo thô do cô chức nữ Tô cơm tẻ nhờ bác nông phu Người nào thọ dụng để tu Nhớ ơn chức nữ, nông phu ngày ngày. PHỔ NGUYỆN Đàn na tín cúng Lợi lạc hiện tiền Đầy đủ phúc duyên Chứng nên Phật quả. 3 lần, 1 tiếng chông Đồng tụng Nam Mô A Di Đà Phật. Phần quá đường đến đây xong. Nếu đi kinh hành, Thầy cả xướng tiếp KINH HÀNH NIỆM PHẬT A Di Đà Phật thân sắc vàng, Tướng tốt rực rỡ hào quang sáng ngời, Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển, Mắt trong ngần, bốn biển long lanh, Ánh hào quang hóa vô số Phật, Vô số Bồ Tát hiện ở trong, Bốn mươi tám độ nguyện chúng sanh, Chín phẩm sen vàng lên giải thoát, Qui mạng lễ A Di Đà Phật, Ở Phương Tây thế giới an lành. Con nay xin phát nguyện vãng sanh, Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ. Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. Vừa niệm Di Đà, vừa đi kinh hành Nam Mô A Di Đà Phật. Khi đứng lại, niệm mỗi câu dưới đây 3 lần Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hãi Chúng Bồ Tát. SÁM PHỔ HIỀN Đệ tử chúng con Tùy thuận tu tập Mười điều nguyện lớn Của Đức Phổ Hiền 1 tiếng chuông Một là nguyện Phật thần thông Chúng minh đệ tử thành công lâu dài. Hai là nguyện lạy Như Lai Cầu cho già trẻ gái trai làm lành. Ba là nguyện phát chí thành Cúng dường Tam Bảo tứ sanh khỏi nàn. Bốn là nguyện dứt nghiệp oan Vượt qua biển khổ ba đường thoát ra. Năm là nguyện học thiền na Bạn lành nương cậy, thầy tà lánh xa. Sáu là nguyện Phật nói ra Xoay vần chánh Pháp, khắp nhà đặng nghe. Bảy là nguyện Phật chở che Ở lâu dạy bảo người nghe tỏ lòng. Tám là nguyện bạn ở chung Mấy lời Phật dạy ở cùng với nhau. Chín là nguyện trước như sau Thuận theo thế tục dám đâu trái lời. Mười là nguyện khắp trong đời Xoay mình lướt tới thẳng dời Lạc Bang Tôn Sư diễn nghĩa ít hàng Cầu cho bá tánh Tây Phang mau về. 1 tiếng chuông TAM QUY Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng. 1 tiếng chuông, lạy 1 lạy Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh Thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. 1 tiếng chuông, lạy 1 lạy Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại. 1 tiếng chuông, lạy 1 lạy
nghi thuc cung qua duong