Bên cạnh các công trình nghiên cứu tổng quan về cả thời kỳ văn học Trung đại. còn có những bài nghiên cứu mang tính cụ thể hơn khi chỉ tập trung đi sâu khai thác. vào cảm quan tự nhiên trong thơ cổ, trong đó có thơ khuynh hướng điền viên - sơn. thủy.
1. Biểu lộ tính độc lập dân tộc. 2. Thay đổi phần nội dung tiêu cực và thân ngoại. 3. Ý đồ thống nhất ý thức hệ. 4. Tự khoác cho mình chiếc áo của một tôn giáo mới (14). Với những mục đích trên, dòng Thiền Trúc Lâm đã có những thành tựu rõ rệt.
II. PHẦN DỊCH THƠ: 10 bài thơ có nội dung mùa Xuân đƣợc tuyển dịch dƣới đây, trích từ bản PDF của sách Thơ Văn Lý-Trần, tập 2, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977. Phần dịch nghĩa, ghi chú, có hiệu đính thêm một vài ý chƣa rõ nghĩa, hoặc thiếu phần Hán văn.
(Thơ văn Lý Trần- Tập 1- 697) Ngài Mãn Giác Thiền Sư cũng biến cuộc đòi thành mùa xuân vĩnh cửu, vẫn thấy xuân đến trăm hoa đua nở, xuân đi thì muôn hoa đều rụng, nhưng thể tánh của hoa vẫn không thay đổi.
Bài tập ngữ văn 8 tập 1; TP Cần Thơ Quản Lý : Trần Thanh Liêm - SĐT : 02871086979 7:30 AM - 22:00 PM. NHÀ SÁCH NGUYỄN VĂN CỪ LẠNG SƠN . Địa chỉ: Số 3 - Nguyễn Du,Phường Vĩnh Trãi ,TP Lạng Sơn, Tỉnh Lạng Sơn Quản Lý : Lê Thanh Hùng - SĐT : 02871086979 7:30 AM - 22:00 PM
- 100% HS học 2 buổi ngày nên GVCN có thời gian rèn luyện cho các em về học tập và các kĩ năng cần thiết. - HS lớp chăm chỉ, vâng lời, có cố gắng học tập, hoàn . Tìm kiếm mẫu kế hoạch chủ nhiệm lớp theo tuần , mau ke hoach chu nhiem lop theo tuan tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam.
HC5diS9. Boristo Nguyen Bài đăng trên Tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh số 502, ngày 21-06-2018 Thơ văn Lý Trần là bộ sách đồ sộ gồm 3 tập tập 1 1977; tập 2 quyển thượng 1988, tập 3 1978, dày 2419 trang, bao gồm 914 đơn vị văn bản. Đây là bộ tuyển tập thơ văn Việt Nam tính từ khi Ngô Quyền dựng nước 938 cho đến sát trước khi Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh 1418, trải qua 5 thế kỉ, 6 triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ. Thơ văn Lý Trần là một công trình nổi tiếng của ngành nghiên cứu văn học và theo như lời của GS Nguyễn Huệ Chi trong video trả lời phỏng vấn của Văn Việt, “là một trong những công trình nghiên cứu khoa học hàng đầu của Việt Nam xã hội chủ nghĩa”⁽²⁾. Bộ sách là một công trình tập thể, có sự đóng góp của nhiều người nhưng với tư cách là người chủ chốt, có công lao chính, Thơ văn Lý Trần đã đem lại danh tiếng cho vị giáo sư này. Nguyễn Huệ Chi được đánh giá cao không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài. Đây là những “tiết lộ” của ông “Xin được tiết lộ thêm, trong suốt thời gian làm bộ sách, tôi được cả Viện đánh giá rất cao, là Chiến sĩ thi đua toàn UBKHXH trong rất nhiều năm Viện Văn học chỉ có mình tôi, sau khi Tập I in ra lại được Công đoàn toàn ngành khoa học xã hội biểu dương là một công trình khoa học nổi bật, bắt phải đi trao đổi kinh nghiệm đây đó, rồi lại được Chi bộ nhất trí kết nạp vào Đảng.”, “Sau này, khi bộ sách đã in ra và nổi tiếng, tôi chịu nhiều hệ lụy về sự nổi tiếng ấy ..”⁽³⁾ Phụ lục ảnh Lý lịch khoa học của Nguyễn Huệ Chi Nhưng thực sự là thế nào? Có việc khuất tất hay tranh cướp kết quả, công sức lao đông của người khác trong Thơ văn Lý Trần? Thậm chí có người còn nói “Vụ Thơ văn Lý Trần, có thể coi là đại án văn chương của thế kỉ 20, trong đấy nhân vật chính là Gs Huệ Chi!” Đây là lời của GS Nguyễn Văn Hoàn kể cho nhà báo Kiều Mai Sơn, ngày 20-4-2014 “Còn bộ thơ văn Lý Trần thì nhiều người làm. Sau này ông Huệ Chi có hơi lạm dụng công của mình ở trong đó. Ví dụ như những bài nghiên cứu đầu thì những ý chính và chỉ đạo là Huệ Chi chịu khó nghe và ghi chép của cụ Đặng Thai Mai với cụ Vân rồi viết thành bài. Rồi việc dịch thì chính tay tôi đưa cho nhóm Huệ Chi mà làm chưa xong thì trong đó nhiều cụ làm lắm. Sau khi Huệ Chi trình bản thảo lên đẻ đưa in thì những bản gốc cậu hủy đi. Cái này tôi không nắm vững cụ Vân dịch bao nhiêu bài, cụ Đào Phương Bình dịch bao nhiêu bài nhưng công dịch phải nói đến 2 người, nếu hai người đó không dịch thì cũng tổ chức đưa những cụ khác dịch. Trong thơ văn Lý Trần quyển 1, 2 quyển sau này Trần Nghĩa làm nhiều. Còn quyển đầu cụ Vân cụ Bình làm nhiều. Sau dần dần biến thành cuốn của Huệ Chi. Thành ra Việt kiều bên Pháp cứ coi trọng Huệ Chi, coi như là nhà Hán học… Chuyện đấy cũng khó làm chi li mà cũng chả cần làm chi li. Sau đó ông Chú có cãi cọ và viết thành bài trên mạng…”. ⁽³⁾ Tôi được nghe không ít người kể về việc Nguyễn Huệ Chi lèm nhèm, cướp công của cụ Nguyễn Đức Vân trong bộ sách Thơ văn Lý Trần. Tuy nhiên tôi sẽ không sử dụng những câu chuyện qua lại đó mà chỉ sử dụng thuần túy logic và những tài liệu đã được công bố, những bằng cứ có trong tay để minh chứng cho những phát biểu của mình. Những nguồn thông tin không chính thức, những trao đổi qua lại mang tính riêng tư giữa Nguyễn Huệ Chi và người khác mà có người cóp lại cho cũng sẽ không được sử dụng tại đây. Bộ tuyển tập đồ sộ này có 914 đơn vị tác phẩm tập I 136 đơn vị; tập II, quyển thượng gồm 363 đơn vị; tập III 415 đơn vị ⁽⁴⁾. Cụ Nguyễn Đức Vân 1900-1974 ngày còn sống có kể cho con cháu phần cụ đã làm được 600 đơn vị văn bản, tức cỡ 600/914=65,6% số đơn vị văn bản. Tuy nhiên trong bộ sách 3 tập in ra này “phần cụ Vân chỉ là 034 đơn vị rưỡi trong đó tập I là 09 rưỡi trên 136, tập II Quyển thượng là 06 trên 363, tập III là 19 trên 415. Trong 3 tập , hai tập I và III in trước thì còn có tên cụ Vân trong nhóm biên soạn. Nhưng đến tập II Quyển thượng in sau vào năm 1989 lúc này cụ Vân đã qua đời 15 năm thì không còn tên trong nhóm biên soạn nữa.”⁽⁴⁾. Như vậy, từ 65,6% phần cụ Nguyễn Đức Vân chỉ còn lại 3,77%! Bạn có thấy sự chênh lệch đó là không bình thường?. Cụ Nguyễn Đức Vân là người hiền lành đức độ và rất khiêm nhường. Đây là những trích đoạn trong bài Nguyễn Đức Vân một “Người Xứ Nghệ của GS Nguyễn Đình Chú, con rể cụ Vân “Học giả Đặng Thai Mai, sư phụ của tôi, đã nói với tôi “Ông Vân của chú là người trung hậu, làm việc nghiêm túc và giỏi”. Còn học giả Cao Xuân Huy hồi ở cùng nhà với tôi thì cũng hai lần nói với tôi “anh có một nhạc phụ tuyệt vời”. Chẳng bằng cấp gì cả mà xem ra cử tú cũng khó bằng.“⁽⁴⁾ “Bấy giờ, có nhóm dịch thuật Hồng Lâu Mộng do cụ phó bảng Bùi Kỷ làm trưởng nhóm, nhưng vừa khởi công chút ít thì cụ Bùi Kỷ qua đời. Công việc do đó gặp khó khăn bởi các vị khoa bảng tham gia dịch thuật tuy là bậc thầy về kinh truyện, nhưng lại không mấy thông thạo ngoại thư 8, nhất là với ngôn ngữ của tiểu thuyết đồ sộ Hồng Lâu Mộng. Cụ Vân đã hầu đỡ các cụ trong việc khắc phục khó khăn ngoài phần dịch riêng của mình. Khi đem in, nhà xuất bản có ý định ghi tên cụ Vân là người hiệu đính. Nhưng Cụ nhất định từ chối với lời lẽ tôi chỉ là phận học trò các cụ, đâu dám, làm thế là hỗn” ⁽⁴⁾ Để hiểu rõ thêm về con người cụ Nguyễn Đức Vân bạn có thể đọc bài viết nói trên, hay bài “Tưởng nhớ cụ Nguyễn Đức Vân 1900-1974 Nhà Hán học uyên thâm xứ Nghệ» của PGS Nguyễn Công Lý⁽⁵⁾ hoặc đơn giản sử dụng công cụ google để tìm kiếm các bài viết, phim truyền hình nói về cụ. Tuy nhiên, những điều viết trên chỉ mang tính tham khảo. Chúng ta sẽ xem xét bằng các luận cứ khác, khách quan hơn. Trong lời nói đầu trang 5-6 quyển 1 1977 ghi rõ “Năm 1960, tổ Hán Nôm của Viện được giao nhiệm vụ sưu tập và phiên dịch ra tiếng Việt toàn bộ thơ văn từ thời Hồ đổ về trước, trong các sách vở chữ Hán còn lưu trữ tại các thư viện và trong một số tài liệu bi kí còn nằm rải rác ở các đình chùa trên miền Bắc. Các đồng chí Nguyễn Đức Vân*, Đào Phương Bình, cán bộ trong tổ, đã trực tiếp tiến hành công việc đó. Nhờ nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, lại có sự giúp đỡ tận tình của những anh em khác trong tổ, nên công việc đã tiến hành tương đối thuận lợi; mỗi năm, mỗi năm khối lượng thơ văn tập hợp được một phong phú dần. Đến năm 1965 thì việc sưu tập cũng như việc phiên dịch bước đầu đã hoàn thành”⁽⁶⁾. Những điều ghi trên phù hợp và chứng tỏ điều cụ Vân kể lại với con cháu là đúng phần cụ đã làm là 600 đơn vị văn bản. Năm 1965 “việc phiên dịch bước đầu đã hoàn thành”. Mãi đến tháng 11 năm 1968 Nguyễn Huệ Chi mới được GS Đặng Thai Mai giao nhiệm vụ nhóm trưởng, năm 1969-1970 hai nhóm biên soạn mới được thành lập. Vậy tại sao phần của cụ Vân từ 65,6% chỉ còn lại 3,77%? Trả lời cho câu hỏi này như thế nào? Theo cách giải thích của con cháu thì sau khi cụ Vân mất năm 1974, toàn bộ bản thảo cụ nộp cho viện Văn học đã bị sang tên người khác. Đây là đoạn đối thoại qua điện thoại giữa GS Nguyễn Đình Chú và Nguyễn Huệ Chi được ghi lại trong bài “Cuộc đối đáp chung quanh công trình Thơ văn Lý – Trần”⁽⁷⁾ “… Cuộc thứ hai Cách một ngày sau NHC Alô! anh Chú à. NC Vâng, tôi đây! NHC Hôm qua, tôi đã đến Viện Văn lục lạo những văn bản của cụ Vân. Nhưng cô Lan và cô Yến nói tất cả đã phôtô đưa anh rồi. NC úng thế! Trước khi viết bài về cụ Vân, tôi và cả nhà tôi đã đến xin phôtô tất cả những gì mà cụ Vân đã dịch ở Viện để lưu niệm cho con cháu lâu dài thì tình hình là thế này. Những gì do thư viện bảo quản thì cơ bản còn đủ cả. Còn phần do Ban cổ cận của ông bảo quản thì chỉ còn lại rất ít [10] . ặc biệt, trong đó có một mẩu cụ Vân đã dịch nghĩa, dịch thơ và khảo đính mà ông đã pha chế thì chẳng ra gì, thậm chí còn là hao hụt, rồi đề thêm tên mình cùng cụ Vân. [11] NHC Hồi bấy giờ, cụ Nam Trân cũng làm thế. NC Tôi chả biết cụ Nam Trân có làm hay không, chỉ biết ông làm thế…..” Bài viết được đăng trên Talawas từ tháng 10-2008, chỉ ra những chứng cứ với những cáo buộc nặng nề, công bố công khai. Từ đó đến nay đã 10 năm, Nguyễn Huệ Chi không có một lời cải chính chính thức, đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho những cáo buộc này. Thay vào đó, ở những chỗ không chính thức ông đưa ra những cách trả lời vòng vo, ngụy biện, bất nhất. Và hơn nữa, Nguyễn Huệ Chi vẫn quanh đi quẩn lại tự khoe mình tài giỏi, làm việc có phương pháp ⁽²⁾⁽³⁾. Một trong những lí lẽ mà Nguyễn Huệ Chi dùng để lấp liếm cho việc làm không hay của mình là đổ cho năng lực hạn chế của cụ Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình “Lúc ấy tôi có hỏi sao không đưa nguyên bản thảo của hai cụ Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình ra in luôn, thì anh Hoàn nói còn lủng củng lắm chưa in được, còn cụ Mai nói Chỉ nên coi đây là bản phác thảo của hai cụ, các bạn trẻ có nhiệm vụ biên soạn hoàn chỉnh thành một bộ sách hẳn hoi. Rút kinh nghiệm năm 1964 tôi cụ Mai đã đồng ý gửi một bản thảo của hai cụ Vân và Bình dịch thơ chữ Hán Nguyễn Trãi sang NXB Văn học chỗ anh Như Phong, nhưng rồi bị anh ấy trả lại, sau phải nhờ anh Trần Thanh Mại chần từng chữ, làm lại rất khổ công mới in được.” GS Đặng Thai Mai và Nguyễn Văn Hoàn đã thành người thiên cổ nên không còn có điều kiện để hỏi lại đúng sai thế nào? Nhưng thiết nghĩ những gì mà cụ Nguyễn Đức Vân đã làm được sẽ nói lên năng lực của cụ. Xin liệt kê một số trong rất nhiều công trình mà cụ đã dịch hoặc tham gia dịch Hồng Lâu Mộng – bộ tiểu thuyết đồ sộ của Tào Tuyết Cẩn dịch cùng Bùi Kỷ và một số người khác, Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân dịch cùng Nguyễn Khắc Hanh, Tùy Viên thi thoại – bộ sách lý luận văn học nổi tiếng của Viên Mai với cả nghìn trang dịch viết tay, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô gia văn phái dịch cùng Kiều Thu Hoạch, Cùng với Nguyễn Sĩ Lâm và Nguyễn Văn Hoàn chú giải truyện Kiều, dịch Trung Quốc tư tưởng của Dương Vinh Quốc, Tuyển tập Dân ca Trung Quốc,.. và rất nhiều tác phẩm khác. Không phải tự dưng mà các học giả GS Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy đã có những đánh giá cao về cụ Nguyễn Đức Vân như đã trích ở trên. Thiết nghĩ, những kết quả dịch thuật và những lời đánh giá của các học giả hàng đầu của Việt Nam nói trên cũng đủ cho ta thấy năng lực của cụ Vân, cái năng lực mà không dễ mấy người có được. Nếu lỡ làm điều khuất tất thì việc ngụy biện, chống chế còn có thể hiểu và thông cảm phần nào. Nhưng để lấp liếm bằng cách hạ thấp người khác, thiết nghĩ là cách xử sự không nên có của một người mang danh trí thức! Tôi sẽ đưa ra một luận cứ nữa để cho thấy cái lí do mà Nguyễn Huệ Chi đưa ra để biện minh cho hành động của mình là hoàn toàn vớ vẩn. Không phải dân nghiên cứu văn học hay thâm chí làm việc trong ngành KHXH, nhưng cũng dễ thấy Thơ văn Lý Trần sẽ bao gồm các loại công việc tìm kiếm – sưu tầm, chọn lọc, dịch nghĩa, chú giải, dịch thơ, khảo đính, khảo luận, index. Công đoạn nào cũng quan trọng, để có chất lượng tốt đều đòi hỏi người làm phải mất nhiều công sức và có trình độ chuyên môn cao. Tuy nhiên, Thơ văn Lý Trần có những đặc thù riêng mà các bộ tuyển tập hay các công trình khác không có. Chỉ cần ngẫm một chút ta sẽ thấy vai trò quan trọng cốt lõi của 2 công đoạn tìm kiếm-sưu tầm và dịch nghĩa mà thiếu chúng thì sẽ không có bộ tuyển tập này. Tìm kiếm- sưu tầm quan trọng vì sự khó khăn, phức tạp của nó. Đây là một giai đoạn lịch sử đã trôi qua 5 thế kỉ rưỡi tính đến năm 1960 khi tổ Hán Nôm bắt đầu tiến hành sưu tầm và phiên dịch, kéo dài 5 thế kỉ, trải qua 6 triều đại với rất nhiều biến động lịch sử. Số lượng tác phẩm là vô cùng nhiều nhưng lại thất tán và tản mát, biến dạng rất nhiều. Để tìm kiếm- sưu tầm lại chúng không chỉ đơn thuần là vào thư viện hay kho lưu trữ tra cứu mà còn phải phải đi các đền chùa ở miền Bắc, tìm kiếm các văn bia, tư liệu còn lưu truyền … Ngay tại trang 9 trong lời nói đầu của Thơ Văn Lý Trần cũng đã ghi rõ “đã trải qua gần 600 năm lịch sử – lại là sáu trăm năm đầy những biến thiên dữ dội – cho nên bộ mặt của nó chắc chắn từng bị sứt mẻ và biến dạng rất nhiều; ngay những phần hiện ít có vấn đề nhất cũng chưa thể nói là còn nguyên vẹn. Khôi phục cho được cái đường nét, cái hình dáng đích thực của những tài liệu còn lại đó cũng như làm sống lại những tài liệu tưởng chừng đã mất, là việc cần phải làm, song cũng là việc vô cùng khó khăn phức tạp.” ⁽⁷⁾ Và đây là lời của GS Nguyễn Đình Chú, con rể cụ Vân “…riêng về cụ Vân thì trong mấy năm đó, ngoài chuyện gắn bó với các thư viện, đặc biệt là Thư viện khoa học vỗn là thư viện Viễn Đông bác cổ, với một chiếc xe đạp cọc cạch, đã đi hết chùa này đình khác ở nhiều nơi trên miền Bắc để sưu tầm, sao chép những gì liên quan đến thơ văn Lý Trần. Và nhiều ngày Chủ nhật, đã từ nội thành ra nhà tôi lúc này còn thuộc ngoại thành, để vừa thăm con cháu vừa tranh thủ làm việc dịch thuật.”⁽⁴⁾ Mục đích đầu tiên và cốt lõi của Thơ văn Lý Trần theo tôi hiểu là khôi phục, nhận diện lại bức tranh văn học của thời kì đó, hay nói cách khác như Nguyễn Huệ Chi “dựng lên bộ mặt văn chương của cả một thời đại bao gồm 6 thế kỷ dưới một tên chung Lý-Trần X – đầu XV”⁽³⁾. Những mục tiêu khác như nghiên cứu, đánh giá, phân tích, phê bình,.. sẽ chỉ là những cái tiếp theo. Tìm kiếm được thông tin, tư liệu nhưng không giải nghĩa, đọc hiểu được văn bản thì lấy cái gì để làm tiếp?. Nên nhớ đây là các văn tự cổ, văn bia, cổ văn và là văn bút, ngoại thư, khó hơn rất nhiều so với sử bút. Đọc hiểu được thứ cổ văn với văn bút này không hề đơn giản! Học Trung văn 3 năm không chuyên, cho dù được hạng ưu như Nguyễn Huệ Chi vẫn khoe, đọc và dịch nghĩa được những văn bản cổ này có lẽ là điều không tưởng, trừ phi ông có một tài năng xuất chúng đặc biệt. “NC iều thứ 4 tôi phải nói thẳng với ông là trong bài viết tranh cãi giữa ông với ông Nguyễn Văn Hoàn từ chuyện về bác Trần Thanh Mại, ông bác ý kiến ông Hoàn cho là trước khi có lớp ại học Hán văn ở Viện Văn học, trong số cán bộ trẻ chỉ có ông Kiều Thu Hoạch là người đọc được cổ văn. Ông cãi lại mà nhận mình đã biết. Ấy là ông nói với ai, chứ với tôi là không xong rồi. Bởi lẽ Ông nói là ông đã học Trung văn 3 năm ở khoa Văn, ại học Tổng hợp thì tôi xin nói rằng Tôi biết 3 năm không chuyên đó, các ông học được tới đâu, và cho dù có qua chuyên Trung 4 năm, 5 năm trong nước hay ở Trung Quốc thì vẫn chưa thể dịch được cổ văn đâu. Ông còn nói là ở thời gian đó quãng 1960 – 1965 trong khi làm sách về Nguyễn Trãi, ông đã tìm đọc ại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương mục những đoạn nói về Nguyễn Trãi để đối chiếu. Ừ thì tôi cứ cho là ông đọc được các thứ đó, nhưng đó cũng chỉ là mấy dòng. Vả chăng, ông còn phải biết rằng trong cổ văn, giữa sử bút và văn bút vẫn có khoảng cách khá rõ. Với sử bút, cú pháp và từ vựng nói chung là đơn giản, dễ đọc chứ với văn bút, cổ văn thì không dễ gì dịch đâu. NHC Im lặng”⁽⁷⁾ Đọc đến đây, chắc bạn đọc cũng đã hình dung về công sức và mức độ tỷ trọng đóng góp của cụ Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình vào công trình Thơ văn Lý Trần. Vậy thì nguyên cớ gì mà phần của cụ Vân từ 65,6% chỉ còn lại 3,77% và “Trong 3 tập , hai tập I và III in trước thì còn có tên cụ Vân trong nhóm biên soạn. Nhưng đến tập II Quyển thượng in sau vào năm 1989 lúc này cụ Vân đã qua đời 15 năm thì không còn tên trong nhóm biên soạn nữa.”⁽⁷⁾? Phụ lục ảnh bút tích cụ Đào Phương Bình, tư liệu do Kiều Mai Sơn cung cấp Và hơn nữa, còn có sự cố tình xóa bỏ dần vai trò cũng như đóng góp của các cụ Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình. Như trên đã nói, 2 cụ bắt đầu tiến hành từ năm 1960 và đến năm 1965 đã bước đầu hoàn thành việc sưu tập và biên dịch. Thế nhưng ngày 5 tháng 9 năm 2007 trong nghiệm thu đề cương công trình “Tuyển tập thơ văn Lý – Trần” do Nguyễn Huệ Chi làm chủ biên thì phạm vi công việc đã bị thu hẹp lại một cách đáng kể, chỉ còn lại các tác phẩm đã in từ trước. Tức là những tìm kiếm-sưu tầm và biên dịch các tác phẩm, văn bia thất tán, tản mác tại các đình chùa khắp nơi trên miền Bắc không còn được tính đến “Viện Văn học đã giao cho nhóm cụ Nguyễn Đức Vân – Tổ Hán văn, các cụ chỉ tuyển trên cơ sở các tác phẩm đã in từ trước, từ thế kỷ X – XV nên không được thông qua” ⁽⁸⁾ Tiếp theo, trong thuyết minh đề tài “Tuyển tập thơ văn Lý – Trần” cho “Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến” cũng do Nguyễn Huệ Chi chủ biên thì vai trò của 2 cụ Vân và Bình hoàn toàn bị gạt bỏ. Trong phần “Mục đích, ý nghĩa và đối tượng phục vụ” của bản đề cương ghi rõ “Việc sưu tầm, nghiên cứu được đặt ra từ 1968,…” ⁽⁹⁾ Tức là chỉ tính từ khi Nguyễn Huệ Chi được giao nhiệm vụ làm nhóm trưởng còn trước đó coi như không có. Tôi sẽ để bạn đọc tự đánh giá, liệu có chuyện cố tình muốn chiếm đoạt công sức, kết quả lao động của người khác hay chỉ là sơ suất như Nguyễn Huệ Chi trả lời GS Nguyễn Đình Chú qua điện thoại “NHC Tôi sơ suất – xin lỗi. NC Huệ Chi mà cũng sơ suất thế à? NHC ược rồi, rồi đây tôi sẽ đưa tên các cụ lên đầu.”⁽⁷⁾ Còn một trong những lí do nữa mà Nguyễn Huệ Chi dùng để biện minh là cụ Vân chỉ dịch nghĩa mà không dịch thơ. Như đã nói ở trên, với bộ tuyển tập này, theo tôi việc dịch thơ chỉ là thứ yếu. Thứ nhất, cái khó là ở chỗ hiểu được văn bản và dịch nghĩa. Không dịch được nghĩa đừng nói đến chuyện dịch thơ. Ngược lại, khi đã có người dịch nghĩa cho rồi, người dịch được thơ chắc không phải hiếm. Thiếu gì trường hợp người dịch thơ mà không biết tiếng nước ngoài, chỉ cần người khác dich nghĩa hộ. Thứ hai, với số lượng tác phẩm đồ sộ và mục đích của bộ tuyển tập là tái hiện, khôi phục lại bức tranh văn học của giai đoạn lịch sử chứ không phải mục đích chính là dịch thơ sao cho hay. Cái cớ không dịch thơ chỉ là lí do vớ vẩn. Đấy là chưa nói đến chuyện những điều mà Nguyễn Huệ Chi nói đã chắc gì đúng. Và chắc gì Nguyễn Huệ Chi đã dịch hay và đúng hơn cụ Vân? Hay chỉ là xào xáo rồi sang tên? “ặc biệt, trong đó có một mẩu cụ Vân đã dịch nghĩa, dịch thơ và khảo đính mà ông đã pha chế thì chẳng ra gì, thậm chí còn là hao hụt, rồi đề thêm tên mình cùng cụ Vân. NHC Hồi bấy giờ, cụ Nam Trân cũng làm thế. NC Tôi chả biết cụ Nam Trân có làm hay không, chỉ biết ông làm thế.” ⁽⁷⁾ Còn có thể kể tiếp nhiều điều bất nhất khác để chứng minh sự khuất tất của GS Nguyễn Huê Chi nhưng bài viết kể cũng đã dài và mọi chuyện cũng đã rõ, để bạn đọc tự đánh giá và rút ra kết luận. Trong comment cuối cùng tại stt “trích Nhật kí KMS” ⁽³⁾ GS Nguyễn Huệ Chi có đề nghị nhà báo Kiều Mai Sơn cho phép khi tái bản Thơ văn Lý Trần sẽ đưa đoạn nhật kí nói trên của GS Nguyễn Văn Hoàn và có nói đến “tư cách trí thức” của GS Hoàn. Chắc mọi người sẽ đồng ý với tôi, người trí thức có tư cách phải là người trung thực, không giả khoa học, không đạo văn và đặc biệt là không trộm cướp công sức lao động của người khác. Tư cách trí thức không phải nơi đầu môi chót lưỡi! Với những điều được trình bày ở trên liệu GS Nguyễn Huệ Chi có đủ tư cách để nói về tư cách trí thức? Tôi nghĩ là không! Moscow 04-05-2018. Boristo Nguyen. 1 “Tư cách trí thức” – chữ của Nguyễn Huệ Chi trong comment trả lời stt Trích Nhật kí KMS đăng trên fb Son Kieu Mai, 5-5-2017 2 Video Văn Việt trò chuyện cùng Nhà nghiên cứu, GS Nguyễn Huệ Chi, youtube, 20-2-2018 3 Kiều Mai Sơn. Trích Nhật kí KMS đăng trên fb Son Mai Kieu ngày 5-5-2017, các comments của Nguyễn Huệ Chi. 4 Nguyễn Đình Chú. Nguyễn Đức Vân một “Người Xứ Nghệ. Văn hóa Nghệ An, 26-02-2010 5 Nguyễn Công Lý. Tưởng nhớ cụ Nguyễn Đức Vân 1900-1974 Nhà Hán học uyên thâm xứ Nghệ. Chuyên san KHXH&NV Nghệ An, số 9/2012 6 Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nhà xuất bản KHXH, 1977. 7 Nguyễn Đình Chú. Cuộc đối đáp chung quanh công trình Thơ văn Lý – Trần. Talawas, 22-10-2008 8 Nghiệm thu đề cương công trình “Tuyển tập thơ văn Lý – Trần” do GS. Nguyễn Huệ Chi chủ biên tại NXB Hà Nội, 5-9-2007 9 Đề cương biên soạn “Tuyển tập thơ văn Lý – Trần” thuộc tủ sách ““THĂNG LONG NGÀN NĂM VĂN HIẾN”, chủ biên Nguyễn Huệ Chi, NXB Hà Nội.
Thơ Văn Lý Trần Tập 2 Quyển Thượng NXB Khoa Học Xã Hội 1988 - Nguyễn Huệ Chi, 965 Trang Discussion in 'Ngữ Văn Học' started by admin, Jun 13, 2013. Tags nguyễn huệ chi nxb khoa học xã hội 1988 phạm tú châu thơ văn lý-trần ebook pdf trần thị băng thanh viện văn học đỗ văn hỷ admin Thư Viện Sách Việt Staff Member Quản Trị Viên Thơ văn thời Lý-Trần, đã được sưu tầm, nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau, từ quy mô Nhà nước, đến các công trình nhỏ lẻ của các cá nhân, ở những góc nhìn khác nhau, phạm vi tìm hiểu cũng khác nhau. Kể từ khi họ Đinh Đinh Tiên Hoàng, dẹp loạn Mười hai sứ quân, lên ngôi Hoàng đế Năm Mậu Thìn-968, kinh đô đặt tại Hoa Lư Ninh Bình, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đất nước bước vào một kỷ nguyên mới, độc lập, thống nhất. Công việc bang giao với nhà Tống được thực hiện, bắt đầu vào năm Canh Ngọ 970. Đinh Tiên Hoàng được một số danh thần như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp…ra sức giúp rập. Cơ nghiệp dường như đang được củng cố, dần ổn định, thì bỗng dưng tai họa ập đến. Vua Đinh và Thái tử Đinh Liễn bị Đỗ Thích ám sát. Đây là một vụ án cho đến nay vẫn còn để lại nhiều chỗ đáng ngờ. Nhiều câu chuyện bí ẩn còn đó, được che lấp bởi màn sương huyền ảo mà người đương thời tạo ra một cách tinh xảo, người đời nay cứ thế mà tiếp nối cái sự mù mờ lịch sử ấy. Đã đành rằng Lê Hoàn sau khi lên cầm quyền 980, đã tỏ ra là một vị vua xứng đáng, với chiến công đánh bại quân Tống xâm lược trên sông Bạch Đằng. Thế nhưng, những câu chuyện còn lẩn khuất xung quanh cái chết rõ như ban ngày, mà lại đầy bí ẩn của cha con Đinh Tiên Hoàng, đặt dấu chấm hết cho một triều đại đang lên, khiến thiên hạ không thể không nghi ngờ, rằng có bàn tay “đạo diễn” của Lê Hoàn hay không? Hoàng hậu Dương Vân Nga là một phụ nữ nhan sắc và đa tình. Đương thời cũng đã có chuyện đàm tiếu trong dân gian, rằng bà có quan hệ tư tình với Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Cái chết của cha con Đinh Tiên Hoàng, có liên can gì với Hoàng hậu hay không? Đỗ Thích giết vua và thái tử Đinh Liễn, chẳng qua hắn cũng chỉ là con tốt trong nước cờ đã được tính toán rất kỹ của một tập đoàn mưu lợi bí mật nào đó chăng? Sử sách xưa chê bà Vân Nga là người đàn bà kém về đức hạnh. Ngày nay, nhìn Hoàng hậu Vân Nga ở góc độ khác, rộng hơn hoặc hẹp hơn tùy ý, người ta biểu dương bà ở tinh thần vì nước mà hy sinh quyền lợi của Hoàng tộc nhà Đinh. Có hay không điều ấy, cũng không thể võ đoán mà kết luận được. Một vài nhà làm sân khấu còn vì biểu dương bà Vân Nga, mà đã vô tình hay hữu ý hạ thấp nhân phẩm của Nguyễn Bặc, Đinh Điền, hay Phạm Hạp, những trung thần đáng nể của nhà Đinh, như thế chẳng phải là sai lầm quá hay sao? Làm méo mó lịch sử như thế, chẳng phải là đã vô tình mà đắc tội với tiền nhân đấy sao? Thơ Văn Lý-Trần Tập 2 NXB Khoa Học Xã Hội 1988 Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Văn Hỷ, Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu 965 Trang File PDF-SCAN Link download Zalo/Viber 0944625325 buihuuhanh Văn Chương Nghệ Thuật Và Thiết Chế Văn Hóa NXB Thế Giới 2017 - Lê Nguyên Long, 349 Trang31/05/2017 Văn Học Bến Tre Tập 1 NXB Khoa Học Xã Hội 2008 - Nguyễn Phương Thảo, 477 Trang04/04/2018 Anh Hùng Và Nghệ Sĩ NXB Đại Học Quốc Gia 2003 - Vũ Khiêu, 328 Trang14/08/2017 Việt Văn Quy Tắc Quyển 1 NXB Tín Đức Thư Xã 1935 - Lương Ngọc Luông, 383 Trang18/02/2014 Tập Nghị Luận Và Phê Bình Văn Học Tập 2 NXB Giáo Dục 1975 - Đỗ Quang Lưu, 265 Trang30/03/2017 Cuộc Sống, Cách Mạng Và Văn Học Nghệ Thuật NXB Đại Học Quốc Gia 2005 - Tố Hữu, 129 Trang13/08/2017 Thi Pháp Thơ Tố Hữu NXB Giáo Dục 1995 - Trần Đình Sử, 277 Trang12/10/2020 Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam NXB Lao Động Xã Hội 2005 - Lê Hạnh, 184 Trang02/08/2015 Thơ Văn Lý Trần Tập 1 NXB Khoa Học Xã Hội 1977 - Nguyễn Huệ Chi, 638 Trang13/06/2013 Quá Trình Hiện Đại Hóa Văn Học Việt Nam 1900-1945 NXB Văn Hóa Thông Tin 2000 - Mã Giang Lân11/06/2017 Tài Liệu Giảng Văn Bích Câu Kỳ Ngộ NXB Đại Học Văn Khoa 1975 - Bửu Cầm, 109 Trang21/06/2015 Cao Chu Thần Thi Tập Trích Dịch NXB Bộ Giáo Dục 1971 - Tạ Thúc Khải, 516 Trang19/05/2017 Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX Quyển 2 Tập 7 NXB Văn Học 2005 - Phan Cự Đệ, 1136 Trang02/08/2018 Tổng Tập Văn Học Việt Nam Tập 29 NXB Khoa Học Xã Hội 2000 - Nguyễn Hoành Khung, 1209 Trang12/09/2017 Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu Quyển 1 NXB Vĩnh Bảo 1949 - Nghiêm Toản, 126 Trang05/06/2013 Last edited Jun 15, 2020 Share This Page Forums Forums Members Members Menu
Ảnh Internet Làm nên thành tựu lớn lao đó, có sự đóng góp không nhỏ của những nhân tài Phật giáo – những vị Thiền sư – những trí thức tinh hoa của thời đại ấy. Họ không chỉ đóng góp trí tuệ, công sức trong việc kiến tạo vương triều Lý, bảo vệ, gìn giữ và phát huy những thành quả của nhà Lý trong suốt nhiều năm sau đó, mà còn là lực lượng chủ yếu đặt nền móng xây dựng và phát triển văn hóa, đặc biệt là văn học thời Lý. Trong việc xây dựng và phát triển văn học thời Lý ấy, sự đóng góp nổi bật nhất, thành tựu to lớn nhất của các tác giả - thiền sư thời Lý là ở mảng/loại hình thơ Đường luật. Điều này thể hiện trên một số phương diện sau Thứ nhất, về đội ngũ tác giả Trong số 57 tác giả hữu danh có tác phẩm in trong sách “Thơ văn Lý - Trần” Ủy ban KHXH Việt Nam – Viện Văn học – Nxb KHXH, H, 1977, Tập 1, có đến 39 tác giả chiếm 70% là nhà sư / thiền sư. Đứng đầu đội ngũ thiền sư - tác giả thơ Đường luật thời Lý ấy là Thiền sư Vạn Hạnh ? – 1018. Ông không chỉ là người có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua khai mở triều Lý bởi những sáng tác thơ Đường luật thể sấm từ thời Lê Sơ, mà còn là người khai mở thơ Đường luật, cũng là khai mở văn học thành văn thời Lý. Điều đặc biệt nữa là, trong 39 thiền sư - tác giả thơ Đường luật thời Lý ấy có Một người là nữ - Ni sư Lý Ngọc Kiều pháp danh là Diệu Nhân. Và, vinh hạnh thay, Bà cũng là Một trong Hai Nữ tác giả văn học Đầu tiên trong lịch sử văn học thành văn Việt Nam. Những con số trên thật ấn tượng! Thứ hai, về số lượng tác phẩm Do nhiều nguyên do khác nhau, mà nguyên do chủ yếu là chiến tranh, di sản văn học viết thời Lý hiện còn, được tập hợp in thành sách không nhiều. Đúng như nhà thơ Lý Tử Tấn sống vào giữa thế kỷ XV, nhận định “Phần còn lại chỉ là một, hai trong trăm ngàn phẩn” những sáng tác của các nhà văn thời Lý. Những tác phẩm thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý cũng chịu chung số phận như vậy. Tuy thế, với số lượng tác giả là nhà sư/thiền sư chiếm số lượng lớn nói ở trên, không khó hiểu khi số lượng tác phẩm để lại được tập hợp trong sách Thơ văn – Lý-Trần của các tác giả là nhà sư cũng chiếm số lượng nhiều nhất. Cụ thể, trong 109 tác phẩm thành văn ở cả hai loại hình văn và thơ, tác phẩm của các nhà sư chiếm số lượng nhiều hơn, với 67 tác phẩm trên 60%. Trong số 67 tác phẩm văn học ấy, đa số các tác phẩm thuộc loại hình thơ ca có 59 tác phẩm, chiếm gần 90%, số tác phẩm thuộc loại hình văn bài văn ngắn và bi ký chỉ có 08 tác phẩm. Căn cứ vào nội dung tác phẩm, thơ ca thời Lý có 4 thể chủ yếu, là thơ sấm vĩ, thơ suy lý, thơ trữ tình, thơ tự sự. Có một điểm chung là, để chuyển tải nội dung trên, các nhà thơ – thiền sư thời Lý đều sử dụng / vận dụng hình thức / vỏ là thơ Đường luật đương nhiên là viết bằng chữ Hán. Như vậy, 59 tác phẩm thơ ca thơ, kệ của các nhà thơ-thiền sư thời Lý là thơ Đường luật Việt Nam. Trong di sản thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý ấy, có một số tác phẩm như Bài thơ “Thị đệ tử” Bảo với đồ đệ của Thiền sư Vạn Hạnh ? – 1018, bài thơ “Đáp nhân tri túc chi vấn” Trả lời người hỏi về hai chữ “Tri túc” của nhà sư Nguyễn Trí Bảo ?-1190, bài kệ “Hưu hướng Như Lai” Đừng theo bước Như Lai của Thiền sư Nguyễn Quảng Nghiêm 1122-1191, bài thơ “Cáo tật thị chúng” Có bệnh bảo mọi người của Đại sư Mãn Giác 1052- 1096,… được đánh giá là những tác phẩm đỉnh cao của văn học thời Lý. Thứ ba, về nội dung tác phẩm Những thiền sư - nhà thơ Đường luật thời Lý quan tâm, phản ánh trong các tác phẩm của mình hầu hết mọi lĩnh vực của công cuộc xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập, tự chủ, hùng cường, ổn định, lâu dài. Song, một mảng đề tài lớn, một xu hướng sáng tác nổi bật nhất của các thiền sư - nhà thơ Đường luật đời Lý qua những tác phẩm thơ Đường luật để lại nói đến trên đây là mảng đề tài về Con Người trong sự chi phối / ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo và trong mối quan hệ Tam giáo Phật - Lão - Nho. Phật giáo là tôn giáo ngoại lai, từ bên ngoài truyền vào nước ta từ lâu, đến thời Lý nó đã “cắm rễ” sâu bền, và đã trở thành Quốc giáo. Nhưng những vấn đề cơ bản nhất của Phật giáo cũng là vấn đề của không riêng Phật giáo, như “sống - chết”, “sinh-lão-bệnh-tử”, “sắc - không”, “xuất thế - nhập thế”, “tâm – pháp”, “niết bàn”,…là gì vẫn chưa phải là đã được những người theo đạo Phật và xã hội thấu đạt. Để làm sáng tỏ những phạm trù đó, đồng thời để tháo gỡ những băn khoăn, cũng là những cản trở con đường đến với “giác ngộ”, “giải thoát”, “niết bàn”,…của phật tử, nhiều vị thiền sư đã đưa ra những kiến giải của mình. Và, thật cao siêu, những kiến giải mang tính triết lý đó phần lớn được các nhà sư chuyển tải dưới dạng thơ ca theo thể Đường luật. Trong khuôn khổ một bài viết, tôi chỉ xin đi vào tìm hiểu vấn đề “sống - chết”, “sinh - lão - bệnh - tử” qua một số tác phẩm của các thiền sư – nhà thơ Đường luật thời Lý. Không chỉ trong thời hiện đại mà trước đó, đã có không biết bao người đã hỏi một câu hỏi “Sống tự đâu đến, chết đi về đâu?” Sinh tòng hà lai, tử tòng hà khứ?. Là những phật tử, các thiền sư – nhà thơ Đường luật thời Lý cũng đau đáu đi tìm lời giải cho câu hỏi lớn đó. Và, rất nhiều người trong số họ đã đưa ra câu trả lời; trong đó, phần lớn những câu trả lời này hiện vẫn được những học giả đương đại tan đồng và quảng bá. Thiền sư – nhà thơ Đường luật đầu tiên ở đời Lý nói đến vấn đề sinh – tử trong thơ là nhà sư Đào Thuần Chân ?-1101. Vấn đề này được Ngài đưa ra khi sắp viên tịch, qua bài kệ “Thị đệ tử Bản Tịch” Bảo học trò Bản Tịch. Dịch nghĩa Bản tính chân như thường không có tính Làm sao có thể từng sinh diệt? Thân thể là hiện tượng sinh diệt Thể tính của hiện tượng chưa từng sinh diệt. Dịch thơ Đỗ Văn Hỷ “Chân tính” thường không tính Sinh diệt có bao giờ Thân là nguồn sinh diệt Pháp tính vẫn như xưa. Qua bài kệ trên, ta có thể thấy nhà sư Thuần Chân cho rằng trong vũ trụ không có gì tồn tại độc lập, riêng biệt tuyệt đối. Tất cả đều tương đối như “có” với “không”, “sinh” với “diệt”, “niết bàn” với “luân hồi”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục khi đọc bài thơ trên của Thuần Chân, cho rằng Chừng nào còn đi tìm “niết bàn” là vì còn ở trong “luân hồi”, đến khi đạt đến “niết bàn” thực sự rồi thì “luân hồi” cũng mất theo. Đấy là tùy theo quan điểm nhìn vậy. Ở trong cái ý thức thuần lý thì có “vật” và “ngã” là hai lưỡng nguyên, vượt lên ý thức trực giác hợp cả tình lẫn lý thì “vật” mất mà “ngã” cũng mất. Nguyễn Đăng Thục – Thiền học Việt Nam, Nxb Thuận hóa, 1997, tr 310. Không lâu sau sư Thuần Chân, nữ thi sĩ đầu tiên của văn học Việt Nam - Ni sư Diệu Nhân 1041-1113 đã đặt ra và giải quyết trực điện vấn đề sinh - lão - bệnh - tử ngay từ tên một bài kệ là “Sinh lão bệnh tử” Sinh lão bệnh tử Tự cổ thường nhiên Dục cầu xuất ly Giải phọc thiêm triền Mê chi cầu Phật Hoặc chi cầu Thiền Thiền, Phật bất cầu Đỗ Uổng khẩu vô ngôn! Dịch nghĩa Sinh, lão, bệnh, tử Lẽ thường xưa nay vẫn thế. Muốn cầu siêu thoát Nhưng cởi trói cũng chính là buộc chặt thêm Mê muội thì mới cầu Phật. Nhầm lẫn thì mới cầu Thiền. Chẳng cần Thiền, chẳng cần Phật Mím mồm lại, không nói gì. Dịch thơ Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình Sinh, lão, bệnh, tử, Lẽ thường tự nhiên. Muốn cầu siêu thoát, Càng trói buộc thêm. Mê, phải cầu Phật, Hoặc, phải cầu Thiền. Chẳng cầu Thiền, Phật, Mím miệng ngồi im. Qua bài thơ này ta có thể thấy, Ni sư Diệu Nhân cho rằng sinh – diệt là cái lẽ thường niên sống động “tự nhiên nhi nhiên”, có sinh, có diệt, không nên quá chú tâm hay quá lo sợ về điều đó. Đừng cho sinh – lão - bệnh - tử là những nỗi khổ trong một đời người. Thái độ “Mím miệng không nói” trước sự sinh – sự tử thể hiện sự bình thản, không đau đáu vào đấy, nhưng cũng không quay đi. Đó là một triết lý thường nhiên để thích ứng với thiên nhiên. Đồng quan điểm với Ni sư Diệu Nhân, sư Vạn Trì Bát 1049-1118 cũng cho rằng sinh - tử là lẽ tất nhiên của sự vật, không nên ngạc nhiên hay thắc mắc, đừng quan tâm vô ích. Ông nói rõ quan điểm ấy trong lời kệ “Hữu tử tất hữu sinh” trước khi nhập tịch Hữu tử tất hữu sinh Hữu sinh tất hữu tử Tử vi thế sở bi Sinh vi thế sở hỷ Bi hỷ lưỡng vô cùng Hốt nhiên thành bỉ thử Ư chư sinh tử bất quan hoài Úm tô lô tất lý! Dịch nghĩa Có chết tất có sống Có sống tất có chết Chết thế gian khóc Sống thế gian mừng Khóc mừng đều vô cùng Bỗng nhiên phân kia khác Sống chết chẳng quan hoài Um tô lô tất lại ! ! ! Thiền sư Bảo Giác ? – 1173 khi truyền tâm ấn cho Thiền sư Tĩnh Giới có cùng quan điểm với sư Vạn Trì Bát, cũng cho vấn đề sinh - tử là lẽ tất nhiên của sự vật, người ta quan tâm đến vô ích “Sinh, lão, bệnh, tử là cái lẽ thường nhiên ở đời, riêng ta làm sao mà thoát khỏi được”. Ông để lại bài kệ “Qui tịch” Trở về cõi tịch mịch. Dịch nghĩa Muôn vàn hiện tượng trở về với cái không, không nơi nương tựa Trở về cõi tịch mịch thì chân như là cơ trước mắt Cái tâm đạt ngộ đã viên mãn không thể chỉ ra được Quan niệm cái tâm như ánh trăng ở trong nước chính là phương pháp để gạt bỏ cái tâm. Dịch thơ Đỗ Văn Hỷ Muôn pháp về không, không tựa nương, Chân như trước mắt, một con đường Cái tâm liễu ngộ khôn nơi chỉ Như bóng trăng nằm đáy đại dương. Qua tác phẩm này, nhất là hai câu cuối, ta thấy nhà thơ đã giác ngộ cái lẽ thường niên qua thiên nhiên như “Thủy nguyệt, nguyệt tâm” / “Trăng nước, trăng tâm” đến thực tại sống động “tự nhiên nhi nhiên” như Ni sư Diệu Nhân đã nói đến ở trên. Nước là nước là có thật, còn “tâm” chỉ là bóng trăng dưới nước “tâm” là không có. Thái độ đó cho thấy Thiền sư Bảo Giác đã đạt tới một cảnh giới viên mãn của “tâm”, như trăng chìm vào nước, đáy nước tìm trăng, không tìm thấy cái ý nghĩa hợp lý tương đối của tâm nữa. Thiền sư Giới Không ? - ? cho rằng sự vật trên đời đều là hư ảo như ánh sao ở trong mâm nước, không nên cho đó là thật. Điều này được ông thể hiện đọc qua bài thơ “Sinh tử” sống chết trước khi mất “Ngã hữu nhất sự kỳ đặc Phi thanh, hoàng, xích, bạch, hắc Thiên hạ tại gia, xuất gia Thân sinh ố tử vi tặc Bất tri sinh tử dị lộ Sinh tử chỉ thị thất đắc Nhược ngôn sinh tử dị đồ Trám khước Thích Ca, Di Lặc Nhược tri sinh tử, tử sinh Phương hội lão tăng xứ nặc Nhữ đẳng hậu học môn nhân Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc. Dịch nghĩa Ta có một việc rất lạ lung Không phải xanh, vàng, đỏ, trắng, đen Trong thiên hạ kẻ tại gia cũng như xuất gia Ham sống sợ chết ấy là giặc Không biết rằng sống chết tuy là hai đường khác nhau Nhưng chẳng qua cũng chỉ là sự mất, sự được đó thôi. Nếu nói sống chết là hai đường khác nhau Ấy là lừa dối cả Thích Ca và Di Lặc Nếu biết được sống là chết, mà chết cũng là sống Thì mới lĩnh hội được chỗ sâu kín của ta. Các ngươi, những học trò theo học ta Đừng cho quỹ tắc của bóng sao trong mâm là thật. Dịch thơ Băng Thanh Ta có một việc này rất lạ Chẳng phải xanh, vàng, đen, trắng, đỏ, Thiên hạ tại gia và xuất gia “Tham sinh, ố tử” là giặc đó! Biết đâu sinh tử tuy hai đường, Nhưng cũng chỉ là sự “mất”, “có”. Nếu bảo sinh tử thực khác nhau, Là lừa Di Lặc và Phật tổ. Muốn hiểu ý ta, chỗ kín sâu, Phải rõ tử sinh là sinh tử Đệ tử, các ngươi, người học sau, Chớ nhận lầm bóng sao, quỹ độ. Tạo hóa có sinh có diệt. Sinh – lão – bệnh – tử là cái lẽ tự nhiên sống động ai sinh ra cũng phải trải qua. Ở đời ai ai cũng phải đến lúc chết, không ai có thể thoát được. Đó là nhận thức / quan niệm đúng đắn ta thấy qua những bài thơ của các tác giả là thiền sư đề cập đến trên đây. Nhận thức đúng, đã là tốt lắm rồi. Nhưng vấn đề của thời đại đặt ra là từ nhận thức đúng đắn ấy, phải chỉ ra được / phải làm cho những người đang ở “cõi mê” ấy con đường để giải thoát khỏi cõi u mê / lầm lạc/nhận thức chưa đúng ấy, để tiếp tục sống, để đón nhận một cách bình thản cái chết. Qua những tác phẩm trên, ta mới chỉ thấy các nhà thơ mới chủ yếu nêu lên nhận thức / cách hiểu / quan niệm đúng đắn của mình về sinh – tử, mà chưa đưa ra được cái cách / hướng dẫn người ta chế ngự nỗi lo buồn, sự sợ hãi hay quan tâm, vướng bận quá mức về sinh – lão - bệnh - tử. Như để khắc phục những hạn chế ấy, cũng bàn về vấn đề sinh – tử, song một số thiền sư- nhà thơ Đường luật thời Lý đã đưa ra hướng / cách làm thế nào để giải thoát khỏi cái bể khổ âu lo về sinh – tử một cách rất tích cực. Người đầu tiên đưa ra quan niệm nhân sinh tích cực, lạc quan trước cuộc sống là Thiền sư Vạn Hạnh ? – 1018. Ông cho rằng mọi vật, mọi việc trên đời luôn luôn biến động, vô thường. Con người cũng không thoát khỏi lẽ vô thường ấy được. Đời người ngắn ngủi, là “có” mà cũng là “không”; là có sinh tất có tử. Đời người chỉ đáng coi là một ánh chớp rất ngắn ngủi, trong đó sự thịnh hay sự suy cũng mong manh và nhỏ nhoi như giọt sương bám ở đầu ngọn cỏ kia. Nhưng có nhiều người do không hiểu cái lẽ “tự nhiên nhi nhiên”, là sự tất yếu của pháp tướng ấy đã muốn có sự vĩnh hằng, ổn định cho nên mới đau khổ, sợ hãi. Để tránh đau khổ, để vượt qua nỗi sợ hãi ấy, Thiền sư Vạn Hạnh cho rằng con người ta phải “nhậm vận” - mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi “Nhậm vận thịnh suy vô bố úy”. Tư tưởng triết học ấy của Vạn Hạnh thể hiện trong bài “Thị đệ tử” Bảo với đồ đệ Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Dịch nghĩa Người đời như bóng chớp, có rồi không, Như cây cối, mùa xuân tốt tươi, mùa thu khô héo. Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi, Vì sự thịnh suy cũng mong manh như giọt sương đầu ngọn cỏ. Dịch thơ của Ngô Tất Tố Thân như bóng chớp Có rồi Không, Cây cối xuân tươi, thu não nùng Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”. Không chỉ cùng quan niệm nhân sinh tích cực, lạc quan trước cuộc sống của Thiền sư Vạn Hạnh, gần 100 năm sau, Thiền sư Nguyễn Quảng Nghiêm 1122-1191 mạnh mẽ hơn, thúc giục những đấng nam nhi “Nam nhi tự mình có cái chí tung trời / Đừng đi theo bước của Như Lai”. Điều này thể hiện trong bài kệ “Hưu hướng Như Lai” Đừng theo bước Như Lai để lại lúc sắp thị tịch Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh Nam nhi tự hữu sung thiên chí Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. Dịch nghĩa Thoát ly được lòng ham muốn đi vào Niết bàn mới có thể bàn tới chuyện đi vào Niết bàn, Sau khi sinh vào cõi vô sinh mới nên nói vô sinh. Nam nhi tự mình có cái chí tung trời, Đừng đi theo bước của Như Lai. Dịch thơ Nguyễn Đức Vân – Đào Phương Bình Thoát tịch diệt xong, hãy bàn tịch diệt Sau vô sinh, rồi hãy nói vô sinh Làm trai lập chí xông trở thẳm Theo gót Như Lai luống nhọc mình. Ngay từ tiêu đề bài thơ, nhà thơ đã khuyên đệ tử “Đừng theo bước Như Lai”, và kêu gọi “Làm trai lập chí xông trời thẳm”. Có được Nhận thức ấy, chứng tỏ, tác giả đã thấu triệt vấn đề sống – chết Liễu sinh tử. Ông hoàn toàn liễu ngộ, không còn phân biệt sống - chết như hai danh từ trừu tượng “có – không” nữa. Đừng quan tâm, đừng nói quá nhiều về sống – chết. Không như quan điểm của một số người muốn kéo dài mãi mãi sự sống của mình / bất tử để hưởng thụ; không như có người công phu tìm kiếm tiên dược để cầu trường sinh bất tử với thế gian này; cũng không run sợ trước cái chết, Thiền sư Quảng Nghiêm thúc giục người ta hãy phấn đấu, nỗ lực để biến đổi con người hiện lại thành con người khác “Làm trai lập chí xông trời thẳm”. Và như thế phải bắt đầu phấn đấu từ cái vị trí cảnh ngộ hiện tại trở đi, nhẫn nại, can đảm, âm thầm, chớ nên mơ màng hướng theo chỗ Như Lai đi mà đi. Đó là lối sống tích cực, tinh thần Nhập thế mà nhà sư muốn truyền lại cho thời đại ông và hậu thế. Mấy lời kết 1. Văn học ở thời đại nào cũng là một bộ phận trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của thời đại ấy. Đó là công việc không bao giờ là dễ dàng. Văn học thời Lý nói chung, mảng thơ Đường luật của các thiền sư đời Lý nói riêng, cũng nằm trong quy luật ấy. Và, không quá khi khẳng định những thiền sư - tác giả thơ Đường luật đời Lý - tầng lớp có học thức, có uy tín và ảnh hưởng trong xã hội, còn giữ vai trò là những người mở đường/ đặt nền móng xây nên truyền thống đó của văn học Việt Nam. Nhiều thế hệ thiền sư – nhà thơ Đường luật đời Lý đã đóng góp vào công việc trọng đại đó với tất cả khả năng, suy nghĩ và sáng tạo nghệ thuật trong những sáng tác đầy trách nhiệm với Đạo, với Đời của mình. Trong một xã hội mà “nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa” thì việc làm trên của các thiền sư không chỉ nhằm hoằng dương Phật pháp, tiếp độ chúng sinh, mà còn đưa chúng sinh vào con đường nhập thế, dấn thân vào các hoạt động xã hội, tham gia triều chính, yểm trợ chính quyền. Qua những vị thiền sư – nhà thơ Đường luật nói trên, chắc chắn là chưa thể nói hết được, nhưng cũng có thể khẳng định Phật giáo thời Lý không coi mình bên ngoài chính sự, không lợi dụng sự tôn kính của các bậc quân vương đối với tôn giáo mình để bài xích, loại trừ các tôn giáo khác. Phật giáo cũng không dùng cách thức hành xử cực đoan đề độc tôn, đề cao mình, mà trái lại, bằng trí tuệ uyên thâm, sâu sắc, bằng tinh thần từ bi, hỷ xả, Phật giáo luôn dung hòa các mối quan hệ, luôn đề cao và phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó và coi đó là tiêu chí cho sự phát triển ổn định, bền vững và lâu dài. 2. Thơ ca thời Lý nói chung, thơ Đường luật thời Lý nói riêng không phải là một cái gì đứng im, bất biến. Trái lại, đó là một thực thể luôn luôn phát triển, gắn liền với quá trình phát triển về mặt nhận thức của dân tộc Việt Nam. Từ dòng thơ sấm vỹ với hình thức nhận thức sơ khai pha màu sắc tín ngưỡng dân gian xuất hiện ở cuối thời Lê Sơ đầu thời nhà Lý, theo thời gian và yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển một nhà nước độc lập, của công cuộc phát triển văn hóa tinh thần của nhân dân đã trưởng thành và sự nghiệp giáo dục ngày một mở mang, hình thức nhận thức có vẻ “tiên nghiệm” của thơ sấm vĩ trên không đủ nữa. Những “đơn đặt hàng” của xã hội về cung cấp kiến thức hiểu biết sâu hơn về vũ trụ, về nhân sinh đã được các nhà văn, nhà thơ, trong đó đông đảo nhất là các nhà thơ – Thiền sư đã giải quyết thỏa mãn được. Thơ suy lý, thơ trữ tình, thơ tự sự lần lượt ra đời để đáp ứng nhu cầu trên. Tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời Lý, tấm gương sống tốt đời, đẹp đạo của các nhà sư thời Lý đã thúc đẩy xã hội hành động cho những giá trị tư tưởng nhân sinh quan tích cực, lạc quan, yêu đời khiến cho văn học thời Lý đạt tới Chân, Thiện, Mỹ. 3. Dòng văn học thời Lý nói chung, cụ thể là thơ Đường luật, tuy mang hình thức ngôn ngữ dùng chữ Hán và mọi quy cách, luật lệ của nước ngoài thể thơ Đường bên Trung Quốc, nhưng nội dung dân tộc vẫn rất sâu sắc, bám sát và giải quyết những vấn đề cấp bách đặt ra cho cả thời đại nhà Lý xây dựng nền độc lập dân tộc, xây dựng Nhà nước hoàn chỉnh, ổn định lâu dài, chống xâm lăng. 4. Những nhà sư – thi sĩ Đường luật đời Lý đã xây dựng được trong văn học thời Lý một dòng văn học chuyên dùng thi ca để diễn đạt các phạm trù “sắc, không”, “sinh, lão, bệnh, tử”, từ bi, hỷ xả,… những triết lý Phật giáo cao siêu, mầu nhiệm đến gần hơn với chúng sinh. 5. Sự xuất hiện của nhà thơ nữ đầu tiên của văn học Việt Nam là một Ni sư cho thấy đạo Phật không trọng nam, khinh nữ như đạo Nho. Chỉ qua sáng tác còn lại có 1 bài, nhưng đã chứng tỏ các nhà sư, ni cô thông thái của đạo Phật thời Lý suy nghĩ hết sức độc đáo, ý thơ tuyệt vời về mặt triết lý. 6. Sở dĩ thơ Đường luật của các Thiền sư thời Lý đạt được những thành tựu to lớn đó là bởi vua đầu triều Lý là Lý Công Uẩn đã được giới sư sãi đứng đầu là Thiền sư Vạn Hạnh ủng hộ, và đã làm mọi cách để đưa lên ngai vàng thành công. Chính vì vậy, Phật giáo nói chung, đặc biệt là đội ngũ Thiền sư được Nhà Lý ủng hộ, xây dựng và phát triển. Dưới thời Lý, chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo chỉ mới bắt đầu, số Nho sĩ được đào tạo ra chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu về đội ngũ quan lại trong bộ máy quản lý của một nhà nước quân chủ ngày một mở rộng ra nhiều lĩnh vực. Trong khi đó, Phật giáo vô cùng phát triển, truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân, và có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống xã hội. Trong nhân dân, số sư sãi và tín đồ Phật giáo chiếm một tỷ lệ khá đông. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu đời Trần thì vào đời Lý “nhân dân quá một nửa làm sãi, trong nước chỗ nào cũng có chùa” Đại Việt sử ký toàn thư , Nxb KHXH, H, 1967, T1, tr 192. Nhà vua và các tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo Phật, nhiều người bỏ tiền ra dựng chùa, cúng ruộng cho nhà chùa. Một số nhà vua đã từng đi tu như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông. Vua Lý Thánh Tông sáng lập ra một phái Thiền tông mới ở Việt Nam phái Thảo Đường. Phần lớn nhà sư là tầng lớp có học thức hơn hết, là những trí thức lớn trong xã hội lúc đó, đóng vai trò quan trọng, in dấu ấn trong mọi lĩnh vực, từ việc xây dựng kiến trúc thượng tầng đến tổ chức xã hội và đời sống văn hóa-tinh thần trong xã hội, được các vua nhà Lý rất trọng vọng. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị và giữ những cương vị quan trọng trong triều, như Thiền sư Vạn Hạnh được phong là Quốc sư, các nhà sư Đa Bảo, Viên Thông được tham dự bàn bạc và quyết định các việc trong triều như những Cố vấn cao cấp của nhà vua. Có thể khẳng định, sự ổn định, vững bền của vương triều Lý, cũng như những thành tựu văn hóa – văn học thời Lý có dấu ấn và sự đóng góp tích cực của Phật giáo, mà cụ thể ở đây là những nhân tài Phật giáo – các vị thiền sư – trí thức lớn đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam nói chung, lịch sử văn học Việt Nam nói riêng như một mốc son chói lọi. Những công lao, đóng góp to lớn trên đây của những thiền sư- nhà thơ Đường luật thời Lý đã được xã hội ghi nhận, được các chính trị gia, từ vua chí quan triều Lý hết lời ca tụng. Tác phẩm văn học của họ chắc chắn sẽ còn sống mãi với thời gian. * Bài viết sử dụng tư liệu trong sách “Thơ văn Lý – Trần”, Tập 1, Ủy ban KHXH Việt Nam – Viện Văn học – Nxb KHXH, H, 1977, sẽ tham luận tại Hội thảo “Thơ Đường luật Việt Nam thời Lý” do Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc – Hội Thơ Đường luật Việt Nam tổ chức tại Từ Sơn - Bắc Ninh vào ngày 04-10-2019. TS Nguyễn Minh San
thơ văn lý trần tập 1